Nước mất không phải do giặc mạnh, mà do lòng dân ly tán chưa đoàn kết đứng lên chống giặc !
-------------oo0oo--------------
Trang Sưu Tầm

--------o0o--------
Tiếng Nam, Tiếng Bắc! Thói Quen hay Thành Kiến?
Đỗ Văn Phúc
Cuộc chiến Quốc Cộng đã chia cắt đất nước ta đăng đẳng hơn 20 năm. Dù nó đã chấm dứt hơn 50 năm, nhưng đã để lại nhiều hệ lụy trong dân chúng hai miền mà trong đó có mối hận sâu sắc khó hàn gắn; và trong nhiều lĩnh vực của đời sống còn sự phân chia khá trầm trọng. Ngôn ngữ cũng không thoát khỏi tình trạng này.
Khi chiến tranh chấm dứt, những người miền Bắc theo đoàn quân man rợ ồ ạt đổ vào Nam chiếm đoạt tài sản của dân miền Nam, xô đẩy hàng triệu người đi khu kinh tế mới, hay phải vượt biển, vượt biên ly tán ra hải ngoại. Người từ miền Bắc mang theo những phong cách quê mùa lạc hậu của giai cấp bần cố nông mà hàng chục năm dưới chế độ Cộng Sản không hề mảy may cải thiện. Trong đó có cách nói, cách dùng chữ nghe rất chướng tai, dù rằng đó là những chữ đã có từ rất xa xưa, nhiều năm trước khi đảng Cộng Sản cướp chính quyền. Nhờ có truyền thông xã hội phát triển, chúng ta có nhiều dịp nghe đọc thứ ngôn ngữ này của những người bên Việt Nam. Qua Facebook hay xem những đoạn video ngắn, bảo đảm chẳng mấy ai có thể nào hiểu hay đoán ra được ý nghĩa đích thực điều họ viết. Nghe thứ ngôn ngữ lạ tai đó, tâm lý chính trị trong lòng người Việt Nam tị nạn trổi lên, chẳng cần truy cứu gốc gác của chữ thế nào; chúng ta nhanh chóng và dễ dàng phán gọn ba tiếng “chữ Việt Cộng.”
Cũng từ mạng xã hội, chúng tôi đọc những lời qua lại khi bàn về chữ nghĩa, không ít người – cả hai phe - đã nhận xét và đánh giá chỉ theo cảm tính và sự kỳ thị Nam Bắc mà không dựa trên dữ kiện và suy luận. Chính người viết này cũng có lần tỏ ra khó chịu và lên tiếng khi nghe những chữ lạ đó. Nhưng trong tinh thần cầu học và phục thiện, chúng tôi đã mất nhiều công tra cứu cả chục cuốn tự điển, và đã tìm thấy nhiều chữ đã có từ thời rất xưa, có trước khi Cộng Sản xuất hiện ở Việt Nam hoặc của những học giả miền Nam. Sách vở dùng tham khảo hiện nay không thiếu trên mạng. Nhưng cuốn tự điển xưa nhất như các cuốn Tự Điển Việt-Bồ-La của Giáo Sĩ Alexandre de Rhodes (1651), đến những cuốn Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của cụ Huình Tịnh Của (in 1895 tại Sài Gòn), Việt Hán Tự Điển của cụ Huỳnh Minh Xuân, Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (in 1931 tại Hà Nội), Việt Nam Tự Điển của hai cụ Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, Hán Việt Tự Điển của cụ Đào Duy Anh (in 1930 tại Hà Nội), Hán Việt Tự Điển của cụ Thiều Chửu (1942) và còn nhiều nữa.
Chẳng lẽ mấy cụ Alexandre de Rhodes, Huình Tịnh Của, Huỳnh Minh Xuân, Lê Ngọc Trụ cũng là Việt Cộng sao? Chúng tôi xin phép đề nghị rằng những gì mình chưa nghe, chưa biết, không hẳn là không hiện hữu! Phải tìm cho kỹ trước khi kết luận để khỏi bị chê về sự hiểu biết nông cạn..
Xin đơn cử một thí dụ: Hai chữ Bức Xúc có trong Việt Hán Tự Điển của Huỳnh Minh Xuân, trang 80. Các tự điển định nghĩa 1. Bức là ép buộc, Xúc là thúc hối. 逼 bức: Bức bách, bức hiếp, ăn hiếp. (Tự Điển Thiều Chửu); 2. Bức Bách là Thúc Dục (Hán Việt Tự Điển Đào Duy Anh, 64); 3. Xúc là hối thúc (Việt Nam Tự Điển của Lê Ngọc Trụ).
Một Dân Tộc , Một Ngôn Ngữ.
Tạm bỏ qua một bên hai nghìn năm huyền sử thời Âu Cơ và Lạc Long Quân mà chỉ tính từ thời Hai Bà Trưng tức khoảng đầu Thế kỷ thứ Nhất sau Công Nguyên, lịch sử người Việt Nam bắt đầu từ đồng bằng Bắc Việt và một phần Bắc Trung Việt. Cuộc Nam tiến bắt đầu từ thế kỷ 14, khi Vua Chế Mân của Chiêm Thành tặng cho nhà Trần hai châu Ô, Rí (Quảng Trị ngày nay) để cưới Công Chúa Huyền Trân. Rồi mãi đến gần cuối thế kỷ 16, thời Trịnh Nguyễn, cha ông chúng ta mới theo Chúa Nguyễn Hoàng vào lập nghiệp ở Quảng Trị và cũng từ đó, xâm lấn và tiêu diệt hai nước Chiêm Thành, Chân Lạp để mở mang bờ cõi đến tận mũi Cà Mau.
Do giao tiếp với dân bản địa Chàm và Khmer, cũng như chịu ảnh hưởng phong thổ miền Nam, giọng nói, cách nói của di dân Việt cũng thay đổi; cha ông chúng ta ở miền Nam học thêm nhiều chữ mới và cũng có phần quên những chữ gốc miền Bắc. Vậy thì có phải vì các lý do này mà chúng ta thẳng tay bác bỏ, phê phán những chữ gốc Bắc mà chúng ta ít nghe đến vì cho rằng những chữ này do Việt Cộng đặt ra hay không?
Ai cũng biết chính quyền Cộng Sản chỉ quan tâm củng cố nền chuyên chính mà ít chú trọng vào việc bảo tồn văn hóa, phát triển giáo dục. Do đó, đại đa số người miền Bắc ngày nay có cách nói bừa bãi, ưa ghép hay cắt bớt chữ một cách cẩu thả làm cho sai nghĩa, kỳ quặc chướng tai. Hiện tượng này, ở miền Nam cũng không phải không có; nhưng người miền Nam chỉ dùng trong trò chuyện bình dân mà không đưa vào các lĩnh vực bác học như văn học, chính trị.
Do tật dốt mà ưa nói chữ, một số người Việt Nam ngày nay – ngay cả cơ quan nhà nước - đã ghép những nhóm chữ rất kỳ quặc. Sau đây là vài ví dụ (trong cả ngàn vạn trường hợp):
- Tên A. này đã ‘tác động vật lý’ chị B. (Thay vì ‘đánh dập’ thì gọi là ‘tác động vật lý.’)
- Chúng tôi ‘tham gia giao thông’ trên đường Trần Hưng Đạo. (Thay vì ‘đi lại’ thì gọi là ‘tham gia giao thông.’)
- Công an ập vào bắt quả tang hai ‘cá thể’ đang ‘quan hệ’ nhau. (Ý nói là hai người Giao hợp, làm tình.)
- Tôi cũng rất ‘tâm tư’ các anh em chiến sĩ. (Tuyên bố của cố Đại Tướng Phùng Quang Thanh, nguyên Bộ Trưởng Quốc Phòng VC; ý muốn nói là ‘quan tâm đến.’)
- ‘Sản lượng hành khách’ thông qua các cảng hãng không trên cả nước trong 9 tháng đầu năm tăng 20% so với cùng kỳ năm trước. (Điện báo Tin Tức của Thông Tấn Xã Việt Nam ngày 23 tháng 2, 2024 và bản tin trên điện báo của Cục Hàng Không Việt Nam thuộc Bộ Giao Thông Vận Tải ngày 27 tháng 9, năm 2023). (Ý muốn nói đến ‘số lượng’ hành khách)
- Nhưng khen cô diễn viên ‘kinh điển’ này xuất sắc. (Khi viết về một cô đào cải lương Kiều Oanh nào đó ở VN. Dùng chữ thế này thì đố ai hiểu được!)
Những Chữ Gốc Hán Tự
Có thể nói từ ngữ Việt Nam có gốc Hán tự chiếm một tỉ lệ khá cao. Trong các lĩnh vực thượng tầng (chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế...) có đến 70 hay 80 phần trăm chữ có gốc Hán tự. Trong đối thoại bình dân thì ngôn ngữ thuần Việt chiếm đa số..
Chúng ta phải dùng rất nhiều chữ gốc Hán Tự vì không có chữ Việt tương tự cho gọn và đủ ý nghĩa. Ví dụ: Tổng Thống, Thủ Tướng, Ngoại Giao, Kinh Tế,Tài Chánh, Xã Hội, Giáo Dục, Quân Đội, Tham Mưu, Tư Lệnh... Cũng có nhiều chữ vừa Hán vừa Việt song hành. Ví dụ: Phi Cơ/Máy Bay, Địa Ốc/Nhà Đất, Cải Cách/Sửa Đổi...
Vài vị tỏ ra không hài lòng việc dùng từ ngữ thuần túy Việt Nam thay cho chữ gốc Hán, cho rằng nghe nó nôm na. Ví dụ: Lầu Năm Góc thay cho Ngũ Giác Đài, Nhà Trắng thay cho Bạch Cung, Tên Lửa thay cho Hỏa Tiễn. Có vị thì ngược lại, dị ứng với việc dùng từ ngữ Hán Việt thay cho chữ thuần Việt, Ví dụ: Quán Triệt thay cho Thông Hiểu, Hiệp Đồng thay cho Hợp Lại, Cự Li thay cho Khoảng Cách, Thu Hoạch thay cho Gặt Hái, vân vân. Trong Quân Đội VNCH, hấu hết danh xưng dùng từ ngữ Hán Việt, ngoại trừ binh chủng Nhảy Dù mà tiếng Hán Việt là ‘Tán Binh.’ Thế thì việc chê bai khi miền Bắc gọi ‘Thủy Quân Lục Chiến’ là ‘Lính Thủy Đánh Bộ’ có mâu thuẫn không? Vấn đề là do hai miền sử dụng quen thuộc chữ này hay chữ kia. Chứ thật ra những đôi chữ nói trên cùng chỉ một vật, một sự việc; có khác nghĩa nhau đâu!
Chúng ta thường đánh giá ngôn từ dựa trên cảm tính (thứ gì nghe quen thì cho là hay là đúng; trái lại thì sai, thì dở) và thành kiến (chữ gì miền Nam dùng thì cho là đúng, miền Bắc dùng thì cho là sai). Theo tôi, ai quen dùng, thích dùng chữ nào thì tùy nghi; miễn là dùng cho đúng nghĩa, đúng nơi. Đúng nơi là khi trò chuyện thông thường, nên dùng từ ngữ thuần Việt thay vì chữ Hán Việt kiểu ‘dốt ưa khoe chữ.’ Nhưng dù là chữ Hán Việt hay chữ thuần Việt, thì những chữ này đều là chữ Việt Nam cả, chúng làm giàu thêm cho văn hóa Việt. Càng tốt chứ sao!
Những Chữ Có Gốc Tây Phương
Cũng có vị không chấp nhận dùng những chữ có gốc Tây Phương. Thí dụ: Sốc (shock) thay vì Choáng Váng. Thử xem, trong cuộc sống thường ngày chúng ta có biết bao nhiêu chữ có gốc Pháp, Anh... Nhà ga, cà vạt, giày bốt, xăng đan, quần sọt, áo len, mũ phớt, bơ, phô mai, cà phê, poóc ba ga, ghi đông, líp, búc nịt, xăng dầu, vân vân.
Sau này, sự phát triển khoa học kỹ thuật tạo thêm hàng vạn chữ mới mà tiếng Việt chưa có ai dịch cho đủ nghĩa. Ví dụ: Laptop, cellphone, download, upload, sign in, log in, key word, save, motherboard, hard drive, software...
Nếu việc dịch ra tiếng Việt không làm cho người nghe hiểu đủ chức năng, ý nghĩa của nó thì nên giữ nguyên từ vì chúng phổ biến trên toàn thế giới. Cũng không nên phiên âm ra tiếng Việt vì sẽ có nhiều chữ đọc nghe kỳ quặc lắm.
Để kết luận: Ngôn ngữ chúng ta đang sử dụng là ngôn ngữ chung của cả dân tộc Việt Nam; không hề có ngôn ngữ Việt Nam Cộng Hòa hay Ngôn Ngữ Việt Cộng! Chỉ có việc người trong chế độ Cộng Sản nói sai, dùng sai mà thôi! Khi bàn về ngôn ngữ, chúng ta cần có tinh thần khoa học, khách quan, và cởi mở
Oct. 22, 2025-Posted by HoangLan
-------oo0oo-------



