Đừng nghe những gì Cộng sản nói. Hãy nhìn những gì Cộng sản làm !
Đừng sợ những gì Cộng sản làm. Hãy làm những gì Cộng sản sợ !
-------------oo0oo--------------
Trang Sưu Tầm
--------o0o--------
Những Luật Lệ Ngầm Ở Nhật Bản
Sưu tầm. Tùy nghi.
From: Khánh Nguyễn
Những Luật Lệ Ngầm Ở Nhật Bản
o0o
1. Sau khi ăn xong . Không dùng tăm ở nơi công cộng. Nếu dùng thì phải kín đáo hay vào
nhà vệ sinh .
2. Vào nhà hàng không dùng khăn nóng lau mặt, chỉ để lau tay thôi
3. Người cùng giới đi ngoài đường không choàng vai bá cổ nhau
4. Không dùng ngón tay chỉ vào người khác
5. Không rung đùi
6. Dùng chén, đũa đúng
7. Không hỏi tuổi người đang nói chuyện với mình
8. Ngoài người yêu, vợ, chồng, con ra, không bao giờ động chạm vào người đang nói chuyện với mình kể cả lúc thân
mật cũng như lúc giận dữ/cãi cọ
9. Không nhổ nước bọt, ngoáy mũi ngoài chổ công cộng
10. Không nói chuyện ồn ào làm phiền hàng xóm
11. Lên tàu điện giữ trật tự, không nói chuyện ồn ào làm phiền người xung quanh
12. Lên tàu điện, lúc nghe nhạc không để âm thanh quá lớn
13. Không ăn uống trên tàu điện
14. Không vắt chân khi ngồi trong tàu điện
15. Không chen lấn, xô đẩy
16. Xếp hàng, không chen ngang
17. Không vứt rác bừa bãi, rác mình thải ra có thể mang về về nhà bỏ khi cần
18. Không để ý soi mói người xung quanh/hàng xóm
19. Không trộm cắp
20. Không cãi, đánh lộn
21. Không gây ồn làm phiền người khác khi ở nhà
22. Không liếc ngang, liếc dọc khi đối thoại
23. Khi làm việc, không sờ vào những thứ chưa biết
24. Đi vào nhà Nhật, hay ăn kiểu Nhật không mang giầy lên sàn, phải cởi giày để ở dưới đất.
25. Đi lên sàn có chiếu tatami, mang vớ đừng cỡi
26. Không gắp thức ăn cho người khác .
27. Không hỏi lương của người khác.
28. Không hỏi cân nặng cũng như bình luận về hình thể người đang nói chuyện với mình. Ở VN đối với người thân quen việc khen tròn trịa có thể là điều tốt. Còn tại Nhật nói...ốm OK, nói mập....kỵ lắm ah' !!
29. Không chở nhau bằng xe đạp. Xe đạp chỉ dành cho 1 người. Cảnh sát sẽ hỏi thăm nếu thấy mình đi xe đạp mà chở thêm 1 người nữa.
30. Không lái xe lúc uống bia rượu. Sẽ bị phạt rất nặng nếu bị phát hiện
31. Không vừa đi vừa hút thuốc, không bỏ tàn thuốc bừa bãi
32. Không khoanh tay trước mặt, không đút tay 2 tay vào túi quần khi nói chuyện
33. Không cho số điện thoại, địa chỉ của người này cho người khác khi chưa có sự đồng ý.
34. Không nói chuyện điện thoại tại chỗ đông người (bữa ăn, buổi nói chuyện...).
Câu chuyện bát mì
Tác giả: Khuyết Danh
Trong cuộc sống ngày nay, xin đừng quên rằng còn tồn tại lòng nhân ái. Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
Đêm giao thừa, ăn mì sợi đón năm mới là phong tục tập quán của người Nhật, cho đến ngày đó công việc làm ăn của quán mì rất phát đạt.
Ngày thường, đến chạng vạng tối trên đường phố hãy còn tấp nập ồn ào nhưng vào ngày này mọi người đều lo về nhà sớm hơn một chút để kịp đón năm mới. Vì vậy đường phố trong phút chốc đã trở nên vắng vẻ.
Ông chủ Bắc Hải Đình là một người thật thà chất phát, còn bà chủ là một người nhiệt tình, tiếp đãi khách như người thân.
Đêm giao thừa, khi bà chủ định đóng cửa thì cánh cửa bị mở ra nhè nhẹ, một người phụ nữ trung niên dẫn theo hai bé trai bước vào. Đứa nhỏ khoảng sáu tuổi, đứa lớn khoảng 10 tuổi.
Hai đứa mặc đồ thể thao giống nhau, còn người phụ nữ mặc cái áo khoác ngoài lỗi thời.
- Xin mời ngồi!
Nghe bà chủ mời, người phụ nữ rụt rè nói:
- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?
Phía sau người phụ nữ, hai đứa bé đang nhìn chăm chú.
- Đương nhiên... đương nhiên là được, mời ngồi vào đây.
Bà chủ dắt họ vào bàn số hai, sau đó quay vào bếp gọi to:
- Cho một bát mì.
Ba mẹ con ngồi ăn chung một bát mì trông rất ngon lành, họ vừa ăn vừa trò chuyện khe khẽ với nhau. "Ngon quá" - thằng anh nói.
- Mẹ, mẹ ăn thử đi - thằng em vừa nói vừa gắp mì đưa vào miệng mẹ.
Sau khi ăn xong, người phụ nữ trả một trăm năm mươi đồng.
Ba mẹ con cùng khen: "Thật là ngon! Cám ơn!" rồi cúi chào và bước ra khỏi quán.
- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ - ông bà chủ cùng nói.
Công việc hàng ngày bận rộn, thế mà đã trôi qua một năm.
Lại đến ngày 31/12, ngày chuẩn bị đón năm mới.
Công việc của Bắc Hải Đình vẫn phát đạt.
So với năm ngoái, năm nay có vẻ bận rộn hơn.
Hơn mười giờ, bà chủ toan đóng cửa thì cánh cửa lại bị mở ra nhè nhẹ. Bước vào tiệm là một người phụ nữ dẫn theo hai đứa trẻ.
Bà chủ nhìn thấy cái áo khoác lỗi thời liền nhớ lại vị khách hàng cuối cùng năm ngoái.
- Có thể... cho tôi một... bát mì được không?
- Đương nhiên... đương nhiên, mời ngồi!
Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai như năm ngoái, vừa nói vọng vào bếp:
- Cho một bát mì.
Ông chủ nghe xong liền nhanh tay cho thêm củi vào bếp trả lời:
- Vâng, một bát mì!
Bà chủ vào trong nói nhỏ với chồng:
- Này ông, mình nấu cho họ ba bát mì được không?
- Không được đâu, nếu mình làm thế chắc họ sẽ không vừa ý.
Ông chủ trả lời thế nhưng lại bỏ nhiều mì vào nồi nước lèo, ông ta cười cười nhìn vợ và thầm nghĩ: "Trông bà bề ngoài khô khan nhưng lòng dạ cũng không đến nỗi nào!"
Ông làm một tô mì to thơm phức đưa cho bà vợ bưng ra.
Ba mẹ con ngồi quanh bát mì vừa ăn vừa thảo luận.
Những lời nói của họ đều lọt vào tai hai vợ chồng ông chủ quán.
- Thơm quá!
- Năm nay vẫn được đến Bắc Hải Đình ăn mì thật là may mắn quá!
- Sang năm nếu được đến đây nữa thì tốt biết mấy!
Ăn xong, trả một trăm năm mươi đồng, ba mẹ con ra khỏi tiệm Bắc Hải Đình.
- Cám ơn các vị! Chúc năm mới vui vẻ!
Nhìn theo bóng dáng ba mẹ con, hai vợ chồng chủ quán thảo luận với nhau một lúc lâu.
Đến ngày 31/12 lần thứ ba, công việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn rất tốt, vợ chồng ông chủ quán bận rộn đến nỗi không có thời gian nói chuyện.
Đến 9g30 tối, cả hai người đều cảm thấy trong lòng có một cảm giác gì đó khó tả.
Đến 10 giờ, nhân viên trong tiệm đều đã nhận bao lì xì và ra về. Ông chủ vội vã tháo các tấm bảng trên tường ghi giá tiền của năm nay là “200đ/bát mì” và thay vào đó giá của năm ngoái “150đ/bát mì”. Trên bàn số hai, ba mươi phút trước bà chủ đã đặt một tờ giấy "Đã đặt chỗ".
Đúng 10g30, ba mẹ con xuất hiện, hình như họ cố chờ khách ra về hết rồi mới đến.
Đứa con trai lớn mặc bộ quần áo đồng phục cấp hai, đứa em mặc bộ quần áo của anh, nó hơi rộng một chút, cả hai đứa đều đã lớn rất nhiều.
- Mời vào! Mời vào! - bà chủ nhiệt tình chào đón.
Nhìn thấy khuôn mặt tươi cười của bà chủ, người mẹ chậm rãi nói:
- Làm ơn nấu cho chúng tôi... hai bát mì được không?
- Được chứ, mời ngồi bên này!
Bà chủ lại đưa họ đến bàn số hai, nhanh tay cất tờ giấy "Đã đặt chỗ" đi, sau đó quay vào trong la to: "Hai bát mì".
- Vâng, hai bát mì. Có ngay.
Ông chủ vừa nói vừa bỏ ba phần mì vào nồi.
Ba mẹ con vừa ăn vừa trò chuyện, dáng vẻ rất phấn khởi.
Đứng sau bếp, vợ chồng ông chủ cũng cảm nhận được sự vui mừng của ba mẹ con, trong lòng họ cũng cảm thấy vui lây.
- Tiểu Thuần và anh lớn này, hôm nay mẹ muốn cảm ơn các con!
- Cảm ơn chúng con? Tại sao ạ?
- Chuyện là thế này: vụ tai nạn xe hơi của bố các con đã làm cho tám người bị thương, công ty bảo hiểm chỉ bồi thường một phần, phần còn lại chúng ta phải chịu, vì vậy mấy năm nay mỗi tháng chúng ta đều phải nộp năm mươi ngàn đồng.
- Chuyện đó thì chúng con biết rồi - đứa con lớn trả lời.
Bà chủ đứng bên trong không dám động đậy để lắng nghe.
- Lẽ ra phải đến tháng ba năm sau chúng ta mới nộp hết nhưng năm nay mẹ đã nộp xong cả rồi!
- Hả, mẹ nói thật đấy chứ?
- Ừ, mẹ nói thật. Bởi vì anh lớn nhận trách nhiệm đi đưa báo, còn Tiểu Thuần giúp mẹ đi chợ nấu cơm làm mẹ có thể yên tâm làm việc, công ty đã phát cho mẹ một tháng lương đặc biệt, vì vậy số tiền chúng ta còn thiếu mẹ đã nộp hết rồi.
- Mẹ ơi! Anh ơi! Thật là tốt quá, nhưng sau này mẹ cứ để con tiếp tục nấu cơm nhé.
- Con cũng tiếp tục đi đưa báo. Tiểu Thuần chúng ta phải cố gắng lên!
- Mẹ cám ơn hai anh em con nhiều!
- Tiểu Thuần và con có một bí mật chưa nói cho mẹ biết.
Đó là vào một ngày chủ nhật của tháng mười một, trường của Tiểu Thuần gửi thư mời phụ huynh đến dự một tiết học.
Thầy giáo của Tiểu Thuần còn gửi một bức thư đặc biệt cho biết bài văn của Tiểu Thuần đã được chọn làm đại diện cho Bắc Hải đảo đi dự thi văn toàn quốc.
Con nghe bạn của Tiểu Thuần nói mới biết nên hôm đó con đã thay mẹ đến dự.
- Có thật thế không? Sau đó ra sao?
- Thầy giáo ra đề bài: “Chí hướng và nguyện vọng của em là gì?” Tiểu Thuần đã lấy đề tài bát mì để viết và được đọc trước tập thể nữa chứ. Bài văn được viết như sau: "Ba bị tai nạn xe mất đi để lại nhiều gánh nặng. Để gánh vác trách nhiệm này, mẹ phải thức khuya dậy sớm để làm việc".
Đến cả việc hàng ngày con phải đi đưa báo, em cũng viết vào bài nữa.
Lại còn: "Vào tối 31/12, ba mẹ con cùng ăn một bát mì rất ngon. Ba người chỉ gọi một tô mì, nhưng hai vợ chồng bác chủ tiệm vẫn cám ơn và còn chúc chúng tôi năm mới vui vẻ nữa.
Lời chúc đó đã giúp chúng tôi có dũng khí để sống, khiến cho gánh nặng của ba để lại nhẹ nhàng hơn".
Vì vậy Tiểu Thuần viết rằng nguyện vọng của nó là sau này mở một tiệm mì, trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất ở Nhật Bản, cũng sẽ nói với khách hàng của mình những câu như: "Cố gắng lên! Chúc hạnh phúc! Cám ơn!"
Đứng sau bếp, hai vợ chồng chủ quán lặng người lắng nghe ba mẹ con nói chuyện mà nước mắt lăn dài.
- Bài văn đọc xong, thầy giáo nói: anh của Tiểu Thuần hôm nay thay mẹ đến dự, mời em lên phát biểu vài lời.
- Thật thế à? Thế lúc đó con nói sao?
- Bởi vì quá bất ngờ nên lúc đầu con không biết phải nói gì cả, con nói: "Cám ơn sự quan tâm và thương yêu của thầy cô đối với Tiểu Thuần.
Hàng ngày em con phải đi chợ nấu cơm nên mỗi khi tham gian hoạt động đoàn thể gì đó nó đều phải vội vả về nhà, điều này gây không ít phiền toái cho mọi người. Vừa rồi khi em con đọc bài văn thì trong lòng con cảm thấy sự xấu hổ nhưng đó là sự xấu hổ chân chính. Mấy năm nay mẹ chỉ gọi một bát mì, đó là cả một sự dũng cảm. Anh em chúng con không bao giờ quên được... Anh em con tự hứa sẽ cố gắng hơn nữa, quan tâm chăm sóc mẹ nhiều hơn.
Cuối cùng con nhờ các thầy cô quan tâm giúp đỡ cho em con."
Ba mẹ con nắm tay nhau, vỗ vai động viên nhau, vui vẻ cùng nhau ăn hết tô mì đón năm mới rồi trả 300 đồng, nói câu cám ơn vợ chồng chủ quán, cúi chào và ra về. Nhìn theo ba mẹ con, vợ chồng ông chủ quán nói với theo:
- Cám ơn! Chúc mừng năm mới!
Lại một năm nữa trôi qua.
Bắc Hải Đình vào lúc 9g tối, bàn số hai được đặt một tấm giấy "Đã đặt chỗ" nhưng ba mẹ con vẫn không thấy xuất hiện.
Năm thứ hai rồi thứ ba, bàn số hai vẫn không có người ngồi.
Ba mẹ con vẫn không thấy trở lại.
Việc làm ăn của Bắc Hải Đình vẫn như mọi năm, toàn bộ đồ đạc trong tiệm được thay đổi, bàn ghế được thay mới nhưng bàn số hai thì được giữ lại y như cũ.
"Việc này có ý nghĩa như thế nào?" Nhiều người khách cảm thấy ngạc nhiên khi nhìn thấy cảnh này nên đã hỏi.
Ông bà chủ liền kể lại câu chuyện bát mì cho mọi người nghe. Cái bàn cũ kia được đặt ngay chính giữa, đó cũng là một sự hy vọng một ngày nào đó ba vị khách kia sẽ quay trở lại, cái bàn này sẽ dùng để tiếp đón họ.
Bàn số hai "cũ" trở thành "cái bàn hạnh phúc", mọi người đều muốn thử ngồi vào cái bàn này.
Rồi rất nhiều lần 31/12 đã đi qua.
Lại một ngày 31/12 đến. Các chủ tiệm lân cận Bắc Hải Đình sau khi đóng cửa đều dắt người nhà đến Bắc Hải Đình ăn mì.
Họ vừa ăn vừa chờ tiếng chuông giao thừa vang lên. Sau đó, mọi người đi bái thần, đây là thói quen năm, sáu năm nay.
Hơn 9g30 tối, trước tiên vợ chồng ông chủ tiệm cá đem đến một chậu cá còn sống.
Tiếp đó, những người khác đem đến nào là rượu, thức ăn, chẳng mấy chốc đã có khoảng ba, bốn chục người.
Mọi người rất vui vẻ.
Ai cũng biết lai lịch của bàn số hai.
Không ai nói ra nhưng thâm tâm họ đang mong chờ giây phút đón mừng năm mới.
Người thì ăn mì, người thì uống rượu, người bận rộn chuẩn bị thức ăn… Mọi người vừa ăn, vừa trò chuyện, từ chuyện trên trời dưới đất đến chuyện nhà bên có thêm một chú nhóc nữa.
Chuyện gì cũng tạo thành một chuỗi câu chuyện vui vẻ.
Ở đây ai cũng coi nhau như người nhà.
Đến 10g30, cửa tiệm bỗng nhiên mở ra nhè nhẹ, mọi người trong tiệm liền im bặt và nhìn ra cửa.
Hai thanh niên mặc veston, tay cầm áo khoác bước vào, mọi người trong quán thở phào và không khí ồn ào náo nhiệt trở lại.
Bà chủ định ra nói lời xin lỗi khách vì quán đã hết chỗ thì đúng lúc đó một người phụ nữ ăn mặc hợp thời trang bước vào, đứng giữa hai thanh niên.
Mọi người trong tiệm dường như nín thở khi nghe người phụ nữ ấy nói chầm chậm:
- Làm ơn... làm ơn cho chúng tôi ba bát mì được không?
Gương mặt bà chủ chợt biến sắc.
Đã mười mấy năm rồi, hình ảnh bà mẹ trẻ cùng hai đứa con trai chợt hiện về và bây giờ họ đang đứng trước mặt bà đây.
Đứng sau bếp, ông chủ như mụ người đi, giơ tay chỉ vào ba người khách, lắp lắp nói:
- Các vị... các vị là...
Một trong hai thanh niên tiếp lời:
- Vâng! Vào ngày cuối năm của mười bốn năm trước đây, ba mẹ con cháu đã gọi một bát mì, nhận được sự khích lệ của bát mì đó, ba mẹ con cháu như có thêm nghị lực để sống.
Sau đó, ba mẹ con cháu đã chuyển đến sống ở nhà ông bà ngoại ở Tư Hạ.
Năm nay cháu thi đỗ vào trường y, hiện đang thực tập tại khoa nhi của bệnh viện Kinh Đô.
Tháng tư năm sau cháu sẽ đến phục vụ tại bệnh viện tổng hợp của Trát Hoảng.
Hôm nay, chúng cháu trước là đến chào hỏi bệnh viện, thuận đường ghé thăm mộ của ba chúng cháu.
Còn em cháu mơ ước trở thành ông chủ tiệm mì lớn nhất Nhật Bản không thành, hiện đang là nhân viên của Ngân hàng Kinh Đô.
Cuối cùng, ý định nung nấy từ bao lâu nay của chúng cháu là hôm nay, ba mẹ con cháu muốn đến chào hỏi hai bác và ăn mì ở Bắc Hải Đình này.
Ông bà chủ quán vừa nghe vừa gật đầu mà nước mắt ướt đẫm mặt. Ông chủ tiệm rau ngồi gần cửa ra vào đang ăn đầy miệng mì, vội vả nhả ra, đứng dậy nói:
- Này, ông bà chủ, sao lại thế này? Không phải là ông bà đã chuẩn bị cả mười năm nay để có ngày gặp mặt này đó sao? Mau tiếp khách đi chứ. Mau lên!
Bà chủ như bừng tỉnh giấc, đập vào vai ông hàng rau, cười nói:
- Ồ phải... Xin mời! Xin mời! Nào bàn số hai cho ba bát mì.
Ông chủ vội vàng lau nước mắt trả lời:
- Có ngay. Ba bát mì.
(hết)
o0o
Vài lời cuối:
Thật ra cái mà ông bà chủ tiệm bỏ ra không có gì nhiều lắm, chỉ là vài vắt mì, vài câu nói chân thành mang tính khích lệ, động viên chúc mừng. Với xã hội năng động ngày nay, con người dường như có một chút gì đó lạnh lùng, nhẫn tâm. Nhưng từ câu chuyện này, tôi đi đến kết luận rằng: chúng ta không nên chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xung quanh, chỉ cần bạn có một chút quan tâm dành cho người khác thì bạn có thể đem đến niềm hạnh phúc cho họ rồi. Chúng ta không nên nhỏ nhoi ích kỷ bởi tôi tin trong mỗi chúng ta đều ẩn chứa một tấm lòng nhân ái. Hãy mở kho tàng ấy ra và thắp sáng nó lên dù chỉ là một chút ánh sáng yếu ớt, nhưng trong đêm đông giá rét thì nó có thể mang lại sự ấm áp cho mọi người.
Câu chuyện này xuất hiện làm xúc động không ít độc giả Nhật Bản.
Có người nhận xét rằng: "Đọc xong câu chuyện này không ai không rơi nước mắt". Đây chỉ là lời nhận xét mang tính phóng đại một chút nhưng nó không phải là không thực tế.
Quả thật, nhiều người đọc xong câu chuyện đã phải rơi lệ, chính sự quan tâm chân thành và lòng nhân hậu trong câu chuyện đã làm cho họ phải xúc động.
Ở Fukuoka, đường đi bộ rất rộng bề ngang rộng như đường lộ, người đi bộ và xe đạp chạy chung ... Ăn những chỗ có vẻ bình dân mà ngon lắm ...đạp ra subway để đó bắt xe điện đi chơi...
Ai nói đồ ăn bên Nhật mắc ? Cũng tùy, nếu ăn ...thịt, pizza, rượu, trái cây nhập cảng nó mắc ...tàn nhẫn lận á !
Còn đồ Nhật thấy như bên Úc thôi
Bên Nhật đi ăn khôngg cần biết tiếng Nhật, ngoài cửa có trưng hình, giá tiền từng món ăn, menu có hình cứ chỉ là xong . Bên Nhật không bao giờ có "chặt đẹp"
Đi ăn mì Ramen, mì Udon - 1 tô mì $4 - $5
Nguyên mâm chừng $8, có tempura .
Vô ngồi là có nước trà mát uống free, nước bên Nhật khỏi trả tiền .
Họ dọn mâm ra, bill để trong cái ly
Mì Udon khg có thịt, có tôm tempura ăn kèm, loại nhẹ hơn mì Ramen, có thịt heo và nước soup thì béo ngậy ăn với gừng ngâm chua .
Fukuoka, nằm phía biển hướng bắc của Cửu Châu (Kyushu) , là 1 trong 7 thành phố lớn của Nhật tân tiến, rất sống động, nhộn nhịp .
Tokyo thì không ...nhộn nhịp nữa mà muốn ...ngộp thở luôn, người ở đâu mà nhiều quá .
Fukuoka rẻ hơn Tokyo thì đúng, giống như vật giá Cần Thơ rẻ hơn Sài Gòn. Giống như ở thành phố bên VN, địa điểm thị tứ, diện tích, trang trí đẹp, quyết định giá cả khác nhau ...
Cả nhóm có kéo đi nhà hàng lớn ăn thì đồ ăn ít mà mắc hơn gấp 2-3 lần.
Ở Nhật thì accomodation, chi phí di chuyển mắc...
Đồ ăn, đồ xài thì không mắc lắm đâu, so với các nước tân tiến như Mỹ, Canada, Úc thì cũng bằng thôi...nhưng đến Nhật nhớ đừng ăn đồ nhập cảng như thịt bò, táo, lê, nho v...v...cũng đừng ăn pizza nhen, pizza lai không giống pizza của Ý cũng hủng giống của nước nào mà mắc lắm...
Đi ăn mì, cơm Nhật, đồ biển thì không mắc mà ngon...mới đúng là đi Nhật ăn đồ Nhật...
Nếu mình không có ai quen thì nên book đi theo tour...vì nếu không sẽ trở ngại về ngôn ngữ, chắc chắn không vui, đi lạc còn tốn nhiều tiền nữa !
Sự khác và giống nhau giữa hai kiểu áo cho Geisha và Maiko
Đây là Geisha
Gei là Nghệ thuật
Sha là Người
Cổ áo Geisha trắng, áo màu trang nhã, tóc búi phía sau dựng cao hơn và không mang hoa tòn teng .
o0o
Đây là Maiko
Mai là Múa
Ko là em nhỏ
Maiko ăn mặc sặc sỡ hơn, trâm cài màu mè, hoa treo tòn teng, tóc bới tròn tròn như trái đào
o0o
Sự giống nhau
Cổ Geisha hay Maiko đều lộ ra 1 phần da thịt thật đó là chỗ gợi cảm của phụ nữ Nhật
Cuộc Đời Của Geisha
Tác giả : Trần Viết Minh Thanh
Các cô geisha là một trong những biểu tượng văn hoá nước Nhật. Thế nhưng văn hóa nghệ thuật geisha chỉ được biết đến rộng rãi với quần chúng Nhật và với thế giới sau thế chiến thứ hai. Trước đây chỉ có giới thượng lưu, các nhà quý tộc, tài phiệt, doanh gia, chính trị gia "lớn" mới có đủ khả năng thưởng thức nghệ thuật đắt tiền này. Thời nay các hội đoàn, công ty có thể tổ chức những buổi tiệc liên hoan có mặt của các cô geisha. Từ đó các cô geisha được quần chúng biết đến rộng rãi. Nhiều cô geisha nổi danh, được chiêm ngưỡng, ái mộ ngang hàng các siêu sao màn bạc bây giờ, tuy vậy đời sống của các cô vẫn là môt bí mật. Geisha là một thế giới riêng, cách biệt, có quy luật, hệ thống điều hành riêng rẽ, và quần chúng Nhật tôn trọng sự cách biệt này. Không có điều luật nào ngăn cấm các cô kể chuyện, nhưng như được hiểu ngầm, các cô geisha sau khi về hưu, chôn chặt quá khứ, giữ im lặng cho đến hết đời.
Năm 1998, một người Hoa Kỳ Arthur Golden đã viết quyển tiểu thuyết có tựa là “Memoirs of a Geisha”, “Hồi Ký của một nghệ sĩ Geisha”. Quyển sách rất lôi cuốn, với nhiều chi tiết tỉ mỉ tả đời sống của xã hội geisha, và trở thành cuốn sách nóng hổi bán chạy tại Hoa Kỳ. Trong trang Tạ Ơn, Arthur Golden dành những lời ưu ái tới cô geisha nổi danh tên là Mineko Iwasaki, thế nhưng cô Mineko lại đâm đơn kiện tác giả, lý do là Golden đã không giữ lời giao hẹn, là không được đề tên cô vào quyển sách, độc giả có thể hiểu sách dựa theo đời tư cô. Vụ kiện đã được dàn xếp, sách xuất bản tại Nhật đã lấy tên cô ra khỏi trang Tạ Ơn. Nghĩ rằng đã đến lúc thế giới bên ngoài cần biết rõ hơn về cuộc sống của các nàng geisha, cô Mineko Iwasaki đã cho ra đời cuốn hồi ký của mình, Geisha, Một Cuộc Đời. Mineko là người đầu tiên viết hồi ký, tả nghiệp cuộc sống mình đã trải qua, mở ra cánh cửa bí mật của cuộc sống các nàng geisha. Sau đó cũng có thêm vài người viết hồi ký nữa.
Bài viết sau đây ghi nhận những chi tiết lý thú về cuộc sống geisha, từ khi đọc quyển chuyện của Arthur Golden, đồng thời người viết cũng phối kiểm lại nhiều dữ kiện qua quyển hồi ký của Mineko Iwasaki, cũng như những tài liệu khác về cuộc đời geisha, kể cả phim tài liệu của đài truyền hình PBS. Mời đọc giả bước vào thế giới các cô geisha.
Thế Giới của Đóa Hoa Cành Liễu, Maiko, Geisha, Geiko.
Nước Nhật có những khu dành hoàn toàn cho giải trí nghệ thuật, gọi là karyukai, nơi các nghệ sĩ geisha sống và làm việc. Karyukai có nghĩa là “thế giới của đóa hoa cành liễu” . Mỗi nghệ sĩ geisha được ví như đóa hoa, đẹp, yêu kiều, nhưng vững chãi như cây liễu. Nước Pháp có Jean de La Fontaine với bài ngụ ngôn để đời, Le chêne et le Roseau, cây sồi nhạo báng cây liễu, chỉ cần một cơn gió nhẹ thổi qua, cây liễu đã phải nghiêng mình theo gió, trong khi đó cây sồi đứng vững vàng, oai nghiêm. Thế nhưng khi bão cuồn cuộn nổi dậy thì cây sồi bị đánh bật tung cả rễ, và cây liễu vẫn nghiêng mình lả lướt theo gió. Lúc gió bão ngừng hẳn, nàng liễu chỗi dậy nhẹ nhàng, đón chào một ngày mới. Tại đất Phù Tang, các cô geisha nhỏ nhắn, xinh xinh cũng được ví như cây liễu. Các cô không chỉ là đoá hoa để khách ngắm, mà còn là nghệ sĩ trình diễn nghệ thuật cổ truyền. Một điều quan trọng mà các cô cần nắm vững là khoa giao tế, để các cô chuyện trò với khách hàng, giúp cho các buổi gặp gỡ giữa các nhà doanh thương thêm phần sống động, cởi mở. Như cành liễu trước ngọn gió, mềm mỏng, chìu chuộng những khách khó tính nhất, tâm các cô phải vững chải vì các khách hàng geisha thường là những người có địa vị trong xã hội. Đôi khi các vị *ng độ nhau tại các nhà khách tân với những ý muốn lạ lùng! Tránh cho các vị khỏi “choảng” nhau há phải là một nghệ thuật?
Danh từ geisha chính ra là chỉ cả nghệ sĩ đàn ông cũng như đàn bà, và những người geisha đầu tiên, thuộc thế kỷ 13, là đàn ông, còn được gọi là taikomochi. Ngoài trình diễn nghệ thuật như đàn, vũ, ca hát, họ còn là bạn trà, và có khi là quân sư cho các vị lãnh chúa nữa. Người đàn bà geisha đầu tiên, một onna geisha, một nữ nghệ sĩ, xuất hiện vào năm 1751 tại một buổi tiệc, làm cho quan khách mê mẩn tài nghệ của nàng. Từ đó nhiều phụ nữ gia nhập nghề, dần dần chiếm luôn lãnh vực này. Ngày nay nói đến geisha người ta nghĩ đến đàn bà, còn các chàng nghệ sĩ taikomochi còn rất ít, chỉ khoảng năm, sáu người trên toàn nước Nhật.
Danh từ Geisha gồm hai phần: Gei có nghĩa là thuộc về nghệ thuật, Sha: người, vậy geisha là người của nghệ thuật. Geisha là những người trình diễn nghệ thuật cổ truyền của Nhật, gồm có: nibon-buyoh, vũ cổ truyền, ca hát âm nhạc cổ truyền được phụ hoạ bởi tiếng đàn của nhạc cụ shamisen, một loại đàn ba dây. Họ còn học đánh trống cổ truyền, học sadoh, nghệ thuật dâng trà, ikebana, nghệ thuật cắm hoa, shodoh, bút pháp, ngâm thơ, và đặc biệt là cách trang phục áo kimono. Bận áo kimono là cả một công trình nghệ thuật! (áo kimono phụ nữ bận thường ngày là loại áo giản tiện hơn). Các cô geisha còn học phương cách trò chuyện để thích ứng với mọi loại khách hàng. Từ thập niên 60 các cô geisha bắt đầu còn học ngoại ngữ để tiếp xúc với khách ngoại quốc. Thế nên muốn trở thành một geisha chuyên nghiệp phải mất mấy năm để luyện tập những nghệ thuật này.
Tại con phố Gion Kobu thuộc tỉnh Kyoto, thời thịnh hành là nơi có nhiều geisha nhất nước Nhật, còn có danh từ geiko. Geisha là nghệ sĩ, geiko là người đàn bà của nghệ thuật. Cô Mineko dùng danh từ này trong cuốn hồi ký của mình, nhưng danh từ geisha thông dụng hơn đối với thế giới bên ngoài.
Nhiều cô geisha xuất thân từ bà mẹ là geisha trước đây, nhưng có nhiều cô cũng từ gia đình khá giả, sau vì sa sút, cha mẹ đồng ý cho con gái vào học tập nghệ thuật geisha. Cha mẹ ký hợp đồng với các nhà okiya, và như bất kỳ các hợp đồng doanh thương khác, hai bên đồng ý khoảng thời gian mà cô phải sống và làm việc cho nhà okiya. Sau thời gian đó, cô geisha có toàn quyền quyết định đời mình, các cô có thể theo hẳn nghiệp geisha hay chuyển sang nghề khác. Các cô thường vào tập sự lúc còn rất bé, tới tuổi đi học, các cô vẫn đến trường học, nhưng sau giờ học thì đến các trường nghệ thuật để học thêm về các môn nghệ thuật cổ truyền mà geisha trình diễn.
Vì sao cha mẹ lại muốn con trở thành geisha? Xã hội Nhật ngày xưa rất ít việc làm dành cho đàn bà, geisha là một nghề nghiệp vững vàng, tạo cho phụ nữ cơ hội được độc lập về tài chánh, ngoài ra các cô còn có dịp mặc những bộ áo kimono đắt tiền, và theo học những nghệ thuật cổ truyền rất tốn kém. Các gia đình xuất thân khá giả, quan tâm đến việc cho con gái được học những nghệ thuật này, cũng như được bận áo kimono, được tiếp xúc với giới thượng lưu trí thức. Muốn được vậy các cô phải trải qua những năm tháng dài luyện tập công phu. Không phải ai cũng thích hợp với nghiệp geisha, tùy theo sự tiến triển và khả năng, các cô có thể chuyển nghề, làm những công việc thích hợp hơn, như giữ kế toán cho gia đình geisha, hay tập sự để cai quản các trà đình, hay có thể trở thành cô giáo dạy đàn, vũ, hay vũ công chuyên nghiệp v.v..
Tại thành phố Kyoto, khu vực Gion và Pontacho, trước khi được gọi là geisha hoặc geiko, các cô gái trẻ, khoảng 5-11 tuổi trong thời kỳ thực tập được gọi là maiko. Phục sức, trang điểm của các cô maiko khác cô geisha rất nhiều, mà chúng ta sẽ đi sâu hơn vào đoạn kế tiếp. Hiện nay tại thành phố Kyoto, hai con phố kể trên Gion và Pontocho là nơi có nhiều geisha nhất, và tại thành phố Tokyo với các khu phố Shimbashi, Akasaka and Yanagibashi.
Geisha và Trang Phục
Các cô geisha tượng trưng cho sắc đẹp mỹ miều của một người đàn bà Nhật bước ra từ một bức tranh vẽ của thế kỷ 11. Muốn được vậy các cô sửa soạn kỹ lưỡng, từ khuôn mặt đến y trang và với sự giúp đỡ của nhiều bàn tay khéo léo chuyên nghiệp!
Bắt đầu với mái tóc. Mái tóc phải được bới từ sáng sớm hay từ ngày hôm trước. Các cô tới một chuyên viên bới đầu cho geisha. Tóc được gội kỹ càng, da đầu được chà xát thật mạnh để không còn gầu. Sau đó tóc được bôi bằng dầu hoa trà, cho nước tóc láng lảy, mượt mà. Rồi chuyên viên lại bôi một chất sáp, có tác dụng như keo, để kiểu tóc được giữ lâu dài. Mỗi lần làm đầu là một khó khăn, cho nên các cô cố gắng giữ tới bốn, năm ngày mới tới hiệu tóc lại. Khi ngủ các cô không dùng gối, mà đặt đầu trên một tấm takamakura, hình dáng thẳng, hai đầu tròn, độn cứng, được đặt sau gáy cổ. Lúc đầu ngủ rất khó khăn, nhưng sau cũng quen dần đi. Ngày nay thì đỡ nhọc, mỗi cô thường có vài bộ tóc giả.
Căn bản của kiểu tóc geisha là hình trái đào chẻ ra làm ba, với cục bối chính giữa, hai cánh hai bên, một sợi dây đỏ được buộc vào chính giữa tóc, kiểu tóc này gọi là momoware. Theo lời giảng của Arthur Golden, thì kiểu quả đào chỉa này có ý nghĩa sâu xa, gợi hình. Phải nói, trên phương tình dục, người Nhật thích tạo các hình ảnh gợi cho trí tượng tượng làm việc.
Có nhiều kiểu bới đầu cho các cô maiko, mỗi kiểu tóc phản ánh thời gian cô đang luyện tập. Các cô geisha mang kiểu tóc giản dị hơn. Cái gì của các cô maiko đều rườm rà, màu mè hơn các cô geisha hết, từ tóc cho đến đai obi, áo kimono.
Tóc được cài bằng những cái trâm rất đẹp, đủ hình thể, hình hoa đi đôi với áo, có vài sợi dây lòng thòng chảy dài như bông tai. Trâm gắn ngọc trai, trâm làm bằng xà cừ, đồi mồi, chạm ngọc vân vân, và có loại trâm đặc biệt các cô maiko chỉ cài ba ngày đầu tiên của nghiệp maiko, rồi được cất lại trong tủ trang sức của giòng họ. Các cô còn làm đẹp thêm đầu tóc với những cây kẹp tóc đâm vào mái tóc. Một mái tóc được trang sức như một bàn tay, mang hai ba cái nhẫn, cộng thêm vòng đeo.
Tiếp đến phần trang điểm khuôn mặt. Lý tưởng ra thì một khuôn mặt đẹp hình trái xoan, thế nhưng không phải ai sinh ra cũng được vậy, thành ra phải trang điểm sao cho người nhìn có ấn tượng đó là một khuôn mặt trái xoan. Lông mày kẻ vòng cung bằng một cây bút chì đúc từ loại gỗ quý của Nhật. Mặt thoa một lớp kem mỏng, sau đó thoa một lớp phấn trắng xóa. Lớp phấn này được trộn với nước thành chất sền sệt. Cổ cũng được phết với phấn trắng bằng cây bút lông, cuối cổ được vẽ thành hình thể ba chân, tất nhiên đàng sau cổ phải có người trang điểm dùm. Cổ áo trễ xuống rất sâu, nhất là với các cô maiko, để hở một cần cổ dài. Đối với người Nhật cổ là phần gợi cảm nhất của người đàn bà. Đoạn da không có phấn tạo cho cảm giác nửa kín nửa hở, làm cho người đàn ông tưởng tượng phần da tự nhiên của người đàn bà sau lớp phấn trắng xóa đó. Môi được thoa son đỏ, nhưng có cô chỉ thoa môi dưới, tạo ấn tượng môi dầy hơn. Má thoa phấn hồng, và chung quanh mắt cũng thoa một đường hồng hồng đo đỏ. Lớp phấn trắng trên khuôn mặt có tác dụng như mặt nạ, làm cho khuôn mặt mang chất kịch tính, tựa như mặt nạ của Noh, một loại kịch cổ truyền Nhật bản.
Trước khi bận áo kimono, các cô bận áo lót, cái áo lót này dài tới đùi, màu hợp với áo kimono, vì lúc vũ, hay quỳ gối ngồi xuống, cô geisha dở tà áo cho khỏi vướng và lòi một phần áo lót ra.
Áo kimono của các cô maiko màu sắc sặc sỡ, với những hình thiết kế, bắt mắt, vui tươi, còn áo kimono của các cô geisha thường trang nhã hơn. Ngày xưa, các cô bận áo kimono phản ảnh với mùa đang thời, vào mùa hè vải nhẹ và mát, mùa đông vải dầy hơn. Theo cổ truyền xưa của Nhật một năm có đến 28 mùa, mỗi mùa có một biểu tượng riêng, cuối tháng ba là mùa của chim hoạ mi, tháng hai cũng mùa xuân nhưng là mùa hoa anh đào, đầu tháng mười một là mùa hoa cúc, tháng mười cảnh lá phong đổi màu vv.. Áo kimono như bức tranh, có khi cả một phong cảnh được hoạ trên áo. Ngoài ra ngực áo lúc nào cũng có thêu hình thể huy hiệu của giòng họ. Tay áo kimono của các cô maiko dài, có khi xuống tới tà áo.
Cổ áo của các cô maiko màu đỏ, cổ áo của geisha màu trắng. Cổ áo là phần rời, mỗi ngày phải có người đính cổ áo vào với cái áo lót. Sau thời kỳ thực tập, các cô maiko sẽ trở thành geisha qua buổi lễ được gọi là eriage, nghĩa là “thay đổi cổ áo”. Cổ áo của các cô geisha bây giờ chỉ có màu trắng, từ đây cô không còn bé bỏng nữa, cô đã trở thành một geisha chuyên nghiệp.
Đi đôi với áo là đai obi. Đai áo cô geisha được cột tươm tất thành một cái hộp ngang lưng, màu sắc hợp với áo kimono cô đang bận, trong khi đó đai obi của các cô maiko dài thòng lòng, được cột thành từng vòng, kẹp cho ngay bằng những cái móc, đuôi dây thòng xuống tà áo. Về bề ngang, đai áo được buộc lên tới ngực, và đoạn cuối xuống tới rốn. Vải đai obi dầy hơn vải áo kimono, hàng lụa, thêu kim tuyến, màu sắc lúc nào cũng sáng và tươi thắm hơn màu áo. Ngắm một cô maiko, không phải chỉ thấy vẽ đẹp của cái áo kimono mà còn ở cái đai obi nữa. Cả áo và đai nặng trên 40lbs. Vào thời kỳ đầu tập sự, các cô maiko khoảng 15 tuổi, cô Mineko cho biết lúc đó cô cân nặng 79lbs, mà cái áo kimono của cô nặng tới 44 lbs. Thế nên phải có người giúp cô bận áo kimono vào.
Mỗi chiều, trước khi ra cổng, các cô đã trang điểm sẵn sàng. Theo lịch trình định sẵn, người bận áo kimono chuyên nghiệp sẽ đi một lượt tới các nhà okiya để giúp bận áo cho các cô geisha. Bận áo kimono là nghề gia truyền, thường gia đình đó cũng sản xuất áo kimono. Đây là những người đàn ông duy nhất được phép có mặt trong nhà okiya vào lúc chiều sẩm. Áo kimono hình chữ T, có độ dài bằng nhau, thế nên trừ người rất cao, áo đứng dễ dàng, không bị sỗ, không bị nhăn, bổn phận người bận áo kimono phải kéo áo cho thật kỹ càng, thẳng thớm, túm một khúc áo bỏ vào đai, khúc kia gấp lại vào nơi khác cho thật gọn gàng để cô geisha giữ được thăng bằng, và quân bình khi đi đứng. Những phụ nữ Nhật không bận áo kimono quen, cần phải có phần đai độn bên trong cho áo được ngay ngắn, còn các cô geisha bận áo kimono hàng ngày, nên ít khi phải dùng đai độn, trông dáng áo mềm mại, dịu dàng hơn.
Chân các cô geisha, maiko, mang tất trắng tabi. Tất tabi cũng giống như giầy có kích thước, các cô cần mang tất số nhỏ hơn guốc một kích để tất ôm vào chân và bám vào guốc dễ hơn. Tất tabi may chìa ra như găng tay có hai phần, phần cho ngón chân cái, và tất cả ngón kia bỏ vào phần còn lại. Tất được gài lại bằng nút. Các cô maiko mang đôi guốc okobo cao tới 6 inches, các cô geisha mang guốc geta thấp hơn. Guốc bằng gỗ, có coi bằng xà cừ. Với guốc cao như thế, thì các nàng phải đi những bước chân nhỏ nhắn, từ tốn, tà áo kimono quấn quít nơi gót chân tựa những ngọn sóng lăn tăn trên bãi biển.
Chỉ nội phần trang phục thôi, các cô cũng phải luyện tập để có khả năng đỡ từng đó sức nặng trên người, thoải mái di chuyển từ trà đình này qua trà đình đến các buổi hẹn, chưa kể những lúc trình diễn các màn vũ điệu dân tộc! Bởi thế, người viết mạn phép gọi là văn hóa nghệ thuật geisha.
Tổ chức trong gia đình và hội đoàn geisha
Các cô geisha sống chung trong những căn nhà, gọi là okiya, nghĩa là nhà của các nghệ sĩ geisha. Mỗi nhà là thuộc một giòng họ, người đứng đầu là một bà mẹ, okami, trước đây cũng là geisha, nay bà có bổn phận dìu dắt các cô trong gia đình, lo việc hành chính, giao tiếp với các chủ trà đình, tửu quán, giới thiệu các cô con gái mới vào nghề, để tất cả mọi người được biết đến cô, như thế các cô mới có cơ hội thăng tiến trong nghề, cũng như đem lợi tức về cho gia đình. Các nhà okiya tài trợ cho các cô con gái mọi chi phí học tập, lệ phí của các lớp học nghệ thuật, các phí tổn như sắm áo kimono, đai obi vv.... Mỗi cô đều có một sổ kế toán riêng, ghi lại những chi phí cũng như tiền công cô tạo được, chi phí sẽ được trừ đi hàng tháng khi cô bắt đầu kiếm ra tiền. Tất cả là một hệ thống rất trật tự và chặt chẽ.
Sau một thời gian, bà mẹ okami sẽ đề nghị nhận nhận cô maiko là con nuôi, cô từ bỏ họ của gia đình và lấy họ của nhà geisha đó. Có cô còn được đặt tên mới cho phù hợp với cá tính của cô, hay tránh sự trùng hợp nếu có trong gia đình mới. Từ thế kỷ 20, thủ tục này được chính thức hóa tại toà án, và quan toà lúc nào cũng đòi hỏi sự đồng ý của các cô bé, mới tán thành cho cô đổi họ.
Chủ gia đình là mẹ, người lớn cùng thế hệ với mẹ là các dì, những người tới sau là em gái, tới trước là chị. Trong mỗi nhà bà mẹ chọn một người nối dõi, một cô atotori, cô mang họ của nhà okiya đó, trong tương lai trở thành chủ gia đình cho đến khi cô kiếm người thừa kế, luyện tập người đó, rồi về hưu, chấm dứt nghiệp geisha. Trong thời kỳ tập sự, mỗi cô maiko đều có một bà chị đỡ đầu, gọi là onesan, chị onesan có bổn phận dìu dắt cô em, giới thiệu với khách hàng, truyền cho cô em những phép giao tế với khách hàng. Các cô geisha ở trong nhà okiya cho đến khi hết hợp đồng, và sau khi trả xong các nợ mà gia đình đã tốn cho sự học tập của cô, rồi các cô có quyền ra riêng sống tự lập. Đối với các cô geisha có tài và chịu khó thì sự việc trả nợ không là điều khó khăn. Trừ khi có người bảo trợ, nhiều cô thích sống với "gia đình" hơn, như cô Mineko ra đi rồi trở lại nhà vì đời sống của cô quá bận rộn, sống riêng phải tự lo lấy, cô không kham nổi.
Tại phương Tây các mạnh thường quân giàu có thường bảo trợ cả một đoàn hát, nhưng tại đất Phù Tang, thì người bảo trợ gọi là danna chọn bảo trợ một cô geisha, giúp cô trang trải mọi chi phí nhà cửa, cũng như tặng cho cô các quà đắt tiền như áo kimono. Bù lại lúc nào cô cũng sẵn sàng có mặt tại những buổi tiệc do ông danna của cô tổ chức. Vào thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, trước thế chiến thứ II, danna chứng tỏ địa vị khá giả của nhân vật đó nữa! Danna không có ý nghĩa là người tình của cô geisha, như tác giả Arthur Golden đã ngầm cho độc giả hiểu, tuy rằng tình cảm giữa đàn ông và đàn bà khó tránh khỏi, nhất là người này lại trả mọi phí tổn cho cô geisha. Hơn nữa vào thời đó người vợ được gia đình chọn theo môn đăng hộ đối, còn các cô geisha là những nghệ sĩ mà đàn ông dễ dàng xiêu lòng vì tài, vì sắc.
Nước Nhật là nước nhiều thủ tục kiểu cách. Các cô maiko hết thời gian tập sự có buổi lễ thay cổ áo, lúc cô có người chị đỡ đầu, onesan cũng có buổi lễ nối tình hai chị em, và nếu cô có người danna bảo trợ cũng có một buổi lễ nho nhỏ với sự có mặt của nhân chứng cùng hai nhân vật chính.
Những nhà okiya, nơi các cô sống có luật lệ rất nghiêm ngặt. Đàn ông, những thương gia và ngày cả người thân của các cô chỉ được vào nhà sau 10 giờ sáng. Tới chiều, khi các cô geisha bắt đầu sửa soạn tắm, bận áo ra đi, nhà okiya đóng hẳn cửa không cho người ngoài vào, trừ ông dresser, người tới giúp bận áo kimono mà chúng ta có nói ở trên. Những người này cũng chỉ được vào một nơi đã chỉ định, và tuyệt đối không có đàn ông vào nhà ban đêm. Tiết hạnh của các cô geisha là một điều rất quan trọng mà những gia đình okiya có tiếng luôn giữ gìn.
Trong quyển sách của Golden có nói đến tục “mizuage”, trinh tiết của cô maiko được đấu giá cho người trả nhiều tiền nhất. Điểm này cũng là lý do cô Mineko kiện tác giả Arthur Golden, vì cô đã vui miệng tiểt lộ một tục lệ mà thế giới geisha giữ kín. Các cô geisha khác giận cô Mineko vì thế giới bên ngoài nhìn các cô geisha như một món hàng có giá cả, mà quên đi tính chất nghệ sĩ của họ. Các cô đã dầy công luyện tập để giữ gìn văn hoá Nhật, mà không phải ai cũng có tài, khả năng và kiên nhẫn để thực hiện được điều này, có nhiều người vào được một thời gian rồi bỏ ngang. Mineko không đề cập đến vấn đề này trong quyển sách của cô. Không biết thực hư ra sao, có điều chắc là tới thế kỷ này thì tục lệ không còn thông dụng nữa, vì luật pháp đã thay đổi rất nhiều để bảo vệ cũng như để tỏ lòng tôn trọng phụ nữ.
Các cô nàng maiko và geiko trình diễn và gặp gỡ khách hàng tại các nhà ochaya, trà đình, hay tại các tiệm ăn, khách sạn ryokan hay ryokei có nhà khách tân lớn. Khách tân là một phòng lớn, trải thảm tatami. Chủ ochaya sẽ cho trang hoàng phòng khách tân khác tuỳ theo thành phần khách hàng, từ chậu hoa, tranh ảnh treo tường, cho đến những con búp bê nho nhỏ bầy trong tủ kiếng... Khi xong tiệc, phòng sẽ được trưng bày lại phù hợp với khách sắp tới. Người Nhật rất kỹ, chú trọng những chi tiết tỉ mỉ, với tinh thần phục vụ khách một cách tích cực. Trong các buổi tiệc liên hoan, tuyệt đối các cô geisha không dùng bữa ăn chung với khách hàng, bổn phận của cô là giúp vui khách hàng. Cuối buổi liên hoan, nếu khách hàng mời cô đi ăn riêng thì lúc đó cô mới ăn. Thường các cô ăn một tí và uống rất ít nước trước khi ra đi, khi cô về nhà, thường là sau nửa đêm, cô sẽ tắm rửa và ăn chút đỉnh trước khi đi ngủ.
Tất cả các cô geisha từ lúc mới vào thời kỳ tập sự đã phải tới ghi danh tại văn phòng hành chánh của hội đoàn geisha gọi là yataka. Muốn mời các cô geisha tới các buổi hội, tiệc phải có người trung gian giới thiệu với các chủ trà đình ochaya hay các ryokan. Các nơi này sẽ liên lạc đến văn phòng yakata, và văn phòng này sẽ báo cho các nhà okiya biết. Yataka có bổn phận làm hoá đơn chi phí, gởi tới khách hàng sau mỗi buổi tiệc liên hoan. Lệ phí geisha tính theo từng 15 phút theo thời gian cô có mặt trong buổi tiệc. Mỗi tiệc tuỳ lớn nhỏ, có tới mấy cô geisha, chia ra trò chuyện với khách. Phần trình diễn văn nghệ phải có hai người, người vũ và người đàn shamisen. Sau đó họ có thể bày trò chơi chung, giúp tất cả mọi người trong buổi tiệc thoải mái tham gia trò chơi. Chi phí cho sự có mặt của các cô geisha cho một buổi tiệc là một chi phí lớn, cho nên thường là những doanh gia giàu có, các chính trị gia hạng lớn và ngày nay thì các hội đoàn, công ty tổ chức cho công nhân trong những dịp đặc biệt. Với hệ thống chặt chẽ như thế, cả hội đoàn geisha đều biết rõ ràng, ai là người làm ra nhiều tiền nhất, người có tăm tiếng được mọi người vời tới nhất.
Ngoài ra mỗi năm các geisha thường xuất hiện trước công chúng qua những buổi trình diễn vũ cổ truyền đặc biệt, được tổ chức hàng năm tại các nhà Hát nổi danh của thành phố.
***
Quyển sách Hồi ký của nàng geisha đã được thực hiện thành một phim hoành tráng. Đây là một quyển tiểu thuyết với nhiều tình tiết ly kỳ, bi thương, trong đó có một câu chuyện tình cảm động. Thế nhưng điều lôi cuốn độc giả chính ra là những chi tiết lý thú của cuộc sống geisha được tác giả trình bày tỉ mì, những tập tục, những công trình khó nhọc để duy trì văn hoá cổ truyền Nhật Bản. Thế nên các cô geisha của đất Phù Tang quả là những đại diện ngoại giao quan trọng của Nhật với thế giới bên ngoài. Vào thời hưng thịnh có tới 10,000 geisha trên toàn nước Nhật, hiện nay chỉ còn khoảng 1000 thôi. Cũng như nhiều nhà okiya tại Tokyo và Kyoto, cô Mineko Iwasaki, cô atotori cuối cùng của dòng họ Iwasaki đã đóng cửa nhà okiya của cô, cô bảo: Xã hội geisha phải thay đổi để thích hợp hơn với thế kỷ mới. Chính tôi với bao nhiêu năm luyện tập nghề vũ mà không được trình bày điệu vũ một cách tự do theo ý tôi. Nghệ thuật geisha muốn được bảo tồn thì cũng như mọi điều khác phải có những thay đổi để thích hợp với nền văn minh của thế kỷ mới.
Điều người viết học hỏi được sau khi đọc các cuốn sách về geisha, là cá tính cần mẫn, tuân theo kỹ luật của các cô. Các cô geisha hãnh diện là những người duy trì và phát biểu nghệ thuật cổ truyền Nhật Bản nên không quản ngại khó nhọc. Một ngày làm việc của cô geisha bắt đầu từ sáng sớm, tới trường học, rảnh rỗi tìm những tài liệu về những người danh tiếng mà mình phải tiếp xúc để có thể trò chuyện một cách thích hợp. Những người có bổn phận giáo dục, từ các bà okami đến các cô giáo dạy đàn, vũ là những người đòi hỏi nghệ thuật phải được học một cách kỹ càng, chính xác. Tất cả đã tạo nên một xã hội đặc biệt, mà biết đến là một điều lý thú. Điều lý thú nhất mà người viết muốn chia sẻ với bạn đọc là cá tính sạch sẽ, cần mẫn của người Nhật. Đối với họ làm việc là một điều đẹp và cần thiết, nhất là quét dọn nhà cửa cho ngăn nắp, sạch sẽ. Một cô bé sáu tuổi bước vào nhà ngày hôm sau được giao phó ngay cho việc làm, việc làm đó là quét sân và sau đó là chùi nhà xí. Đến khi cô bé lớn lên, những khi cô buồn, cô chùi dọn đồ đạc cho nhà được láng coóng. Chùi quét những dơ bẩn trong nhà là quét đi những muộn phiền của đời sống. Ý tưởng đó được truyền từ đời này sang đời khác, tạo được một xã hội trật tự, cảnh trí ngăn nắp sạch sẽ mà không cần những luật lệ sắt đá!
Trần Viết Minh-Thanh
-------oo0oo-------