------------oo0oo--------------
Trang Sưu tầm dùng đăng tải những bài viết của bạn đọc gởi về cho chúng tôi. Vietlist chấp nhận mọi thể loại mọi đề tài, từ khoa học, kỹ thuật cho tới văn thơ, nữ công, gia chánh... Chúng tôi sẽ đăng tải nếu bài viết thích hợp với lập trường của người Việt Quốc Gia. Xin quý vị gởi bài cho chúng tôi qua email: vietlist09@yahoo.com. Kính chúc quý đọc giả vui khỏe.
-------------oo0oo--------------
Vì sao “nhạc sến” vẫn còn?
Cái tin ca sĩ hải ngoại Tuấn Vũ, một biểu trưng của dòng nhạc “sến” Sài Gòn cũ, làm một hơi 7 đêm diễn chật cứng người ở Hà Nội thật đáng ngẫm nghĩ.
Bảy đêm đó không ở một phòng trà tồi tàn, mà công diễn tại Nhà Hát lớn Hà nội, nơi được xem là Carnergie Hall, một thánh đường âm nhạc của Việt Nam.
Không phải chuyện đùa!
Xin khoan trách tôi có ý miệt thị vì đã dùng chữ “sến” ở đây. Với tôi, “sến” hay “sang” chỉ là khái niệm rất chủ quan. Hay nói theo ngôn ngữ marketing hiện đại, để chỉ các phân khúc âm nhạc khác nhau dành cho những đối tượng công chúng khác nhau. Hồi đó ở Sài Gòn, các osin nhà nghèo, đi gánh nước mướn thường tụ tập ở vòi nước công cộng (phông ten nước) để buôn chuyện, nên mới có danh từ “Ma ri đờ la Phông ten” để trêu chọc họ. Lại có cô đào Marie Schell mới nổi, nên người Sài Gòn gọi tắt họ là Mari Sến cho vui cửa vui nhà. Chính các osin hay giới bình dân thời đó là thính giả trung thành của một công thức âm nhạc: bolero hay rumba, diễn đạt bằng âm hưởng dân ca luyến láy, giọng mũi thì càng tốt.
Âm nhạc ấy, nhiều người gọi là “nhạc sến” theo nghĩa miệt thị chê bai. Nhưng nó vẫn sống, sống dai dẳng hơn nửa thế kỷ. Nó vượt qua những cách biệt về văn hóa, địa dư để làm một hơi 7 đêm diễn kỷ lục ở “Opera House” Hà Nội. Kỷ lục này, các maestro âm nhạc bác học ắt phải thèm muốn ganh tị.
Dù “sến” hay “sang”, muốn sống được, âm nhạc đó phải đi vào lòng người. Không ai có thể bắt một cô sen, anh xích lô máy… phải thổn thức, trầm ngâm với những cung bậc theo kiểu:
“mộng về một đêm trăng thanh, anh thì thầm ngày đó yêu em”
hay
“đêm mờ trăng úa làm vỡ hồn ta” được.
Nó cực kỳ ngượng nghịu và khiên cưỡng như ép Beethoven phổ nhạc thơ Tú Mỡ (?).
Nhạc “sến” sống lâu vì nó là nỗi buồn, mong nhớ, thổn thức của giới bình dân Nam bộ theo kiểu:
“ước gì nhà mình chung vách, ước gì mình đừng ngăn cách, hai đứa mình thức trắng đêm nay”…
Hay có vần có điệu như thế này:
“Con đường xưa em đi, vàng lên mái tóc thề, ngõ hồn nghe tái tê.
Anh làm thơ vu quy, khách qua đường lắng nghe chuyện tình ta đã ghi”…
Cứ vậy mà yêu đương, mà nhung nhớ, mà nghêu ngao câu vọng cổ nối tiếp bằng điệu bolero mùi mẫn…
Người trí thức có thể không thích nó, nhưng cũng không đến mức ghét bỏ nó thậm tệ.
Vì nó thật, dù không “sang”!
Những tình cảm rất thật thà và bình dân đó, dễ dàng bị các bậc “nhạc phiệt” chụp cho cái mũ hạ lưu. Hay tệ hơn, việc “anh khoét bức tường, anh qua thăm em” là quan hệ nam nữ bất chính, thiếu rèn luyện tu dưỡng… gì gì đó.
Nhưng nói gì thì nói, âm nhạc đó vẫn sống với quần chúng. Nó làm được điều mà cái gọi là “âm nhạc hàn lâm” thúc thủ, là sự yêu mến và tồn tại trong tâm thức người nghe nhạc. Nó không bị bó khuôn bởi những công thức tình yêu kiểu anh bộ đội thì phải yêu chị công nhân, cậu thanh niên xung phong phải yêu cô dân công tải đạn. Và hễ yêu nhau thì phải nắm tay tăng gia sản xuất, xây dựng đất nước đẹp giàu.
Những công thức ấy tốt, mẫu mực! Nhưng tình yêu thì từ chối mọi khuôn dạng. Tình yêu không cần đo ni đóng giày cho mực thước. Âm nhạc cũng thế, nhất là nhạc tình.
Cái gọi là “âm nhạc cổ điển đương đại Việt” cũng thất bại với điều mà “Tôi yêu tiếng nước tôi”, “Màu tím hoa sim”… và vô vàn ca khúc khác đã làm được là đẩy dân tộc tính lên tầm nhân loại. Thật vậy, hãy nghe lại các kiệt tác Mazurka, Polonaise, Berceuse… của Chopin để thấy âm hưởng dân ca Ba Lan đầy ắp trong đó, một cách hoa mỹ và sang trọng. Rất nhiều ví dụ như thế để thấy: đúng như người ta nói, “âm nhạc cổ điển bắt nguồn từ nhân dân”, từ “tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi”, để cùng “khóc cười theo vận nước nổi trôi”. Bằng cách đó, nhân loại có một nền âm nhạc cổ điển bất tử, vượt ra khỏi ranh giới không gian, địa lý, thời gian. Nói dân tộc tính mang tầm nhân loại là vậy!
Tính dân tộc cao vòi vọi đó, người ta không thấy trong những bản concerto nhạt nhẽo như “Quê ta vào mùa”, bản hợp xướng “Cánh đồng năm tấn”, giao hưởng dành cho đàn tranh… mà người ta rổn rảng gọi đó là cổ điển đương đại Việt.
Thời chiến, người ta cần những âm nhạc ấy, để “xốc” lại tinh thần. Thời bình đã hơn 30 năm, những cảm xúc ấy trở nên thừa thãi, thậm chí vô duyên. Người ta quay về với những tình tự rất giản dị theo kiểu “nhà nàng ở cạnh nhà tôi”, đục tường khoét vách để tình tự cùng nhau (cho nó nhanh và giản tiện)… Anh xích lô thì thích mời chị osin đi ăn bún ốc chiều cuối tuần, thay vì diện tuxedo đi nghe hoà nhạc cổ điển. Công chúng bình dân có khẩu vị giản dị của mình, họ ghét sự pha trộn lung tung. Thêm một lý do để “nhạc sến” lên ngôi, lấp đầy khoảng trống vô vị và giả tạo mà các “dự án âm nhạc” ầm ĩ không làm được.
Âm nhạc đích thực thời nào cũng thế, phải mang hơi thở của đời sống. Âm nhạc đích thực không túm cổ, điểm mặt quần chúng để mắng mỏ: “anh không nghe tôi là tai anh hỏng”. Nhạc “sến” đã đồng hành với người dân, hít thở cùng họ qua nhiều thập niên. Nó vẫn sống, mặc dù chưa bao giờ vươn đến tầm nhân loại.
Thật thì sống, đẹp mà giả tạo thì chết yểu! Đó là câu trả lời rất rõ ràng của công chúng phía Bắc qua bảy đêm diễn cháy vé vừa qua.
xem them: http://www.drnikonian.com/2011/01/01/vi-sao-“nhạc-sến”-vẫn-con/
-------oo0oo-------
Việt Cộng đối ngoại thì nhu nhược, bán nước,
đối nội thì tàn ác và hà khắc với nhân dân.
Những hình ảnh đẹp của Cộng Đồng Việt Nam
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội