tittle


bottom


Search Vietlist.us
Search the Web



Vietnam

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

covang

Vietnam

covang

Home Page Vietlist.us

------------oo0oo--------------

Trang Sưu tầm dùng đăng tải những bài viết của bạn đọc gởi về cho chúng tôi. Vietlist chấp nhận mọi thể loại mọi đề tài, từ khoa học, kỹ thuật cho tới văn thơ, nữ công, gia chánh... Chúng tôi sẽ đăng tải nếu bài viết thích hợp với lập trường của người Việt Quốc Gia. Xin quý vị gởi bài cho chúng tôi qua email: vietlist09@yahoo.com. Kính chúc quý đọc giả vui khỏe.

-------------oo0oo--------------

CHƯƠNG XV: Nhà Sàn Hồ Chí Minh

Viết bởi Trần Nhu

ThanLong-HaNoi

Tác phẩm Thăng Long Xưa Hà Nội Nay, sách dầy 476 trang.

Tòa nhà đồ sộ, kiến trúc theo kiểu mẫu Tây Phương, tuy hơi xưa nhưng đẹp và uy nghi nhất Thủ đô Hà Nội. Nó đã trải qua bao nhiêu năm binh biến... mà vẫn còn giữ được nguyên vẹn. Ðó là dinh Bắc bộ phủ cũ, sau là dinh Thủ Hiến Bắc phần, đến biến cố Hiệp Ðịnh Genève năm 1954 nó trở thành phủ Chủ tịch. Thời Pháp thuộc ngôi nhà này mang biển số 12 phố Ngô Quyền, nội thành Hà Nội.

Trong khu vườn rộng sau Phủ Chủ tịch có một ngôi nhà sàn mới của ông vua vô sản.

Nghe chữ “nhà sàn”, người ta thường liên tưởng đến những ngôi nhà sàn của các dân tộc thiểu số ở miền núi, làm bằng gỗ, cách mặt đất khoảng trên 1m, phía dưới dùng để cất giữ dụng cụ hay nhốt gia súc. Những ngôi nhà sàn này rất đơn sơ, mộc mạc, giản dị. Ấn tượng giản dị khiến người ta lầm tưởng rằng ngôi nhà sàn của Hồ Chí Minh có lẽ cũng thế.

Thật là một sự giản dị “mẫu mực” tuyệt đẹp, rất đáng triển lãm để dân chúng ngưỡng mộ. Thực tế hoàn toàn không phải như vậy. Những du khách đã từng viếng thăm ngôi nhà sàn của Hồ Chí Minh, sẽ có cảm nghĩ khác hẳn... Và tôi cũng muốn mời các bạn đọc cùng tôi làm một cuộc du ngoạn. Từ phòng lớn khánh tiết dinh Chủ tịch, theo hành lang ra phía sân sau. Có một con đường đẹp rải sỏi trắng phau, hai bên trồng xoài, dẫn tới một ngôi nhà sàn, giữa những vòm cây. Hàng rào dâm bụt bao quanh nhà. Cổng vào kết bằng cành cây đan xen nhau mang phong vị dân giã. Hai cây dừa giống quí mua từ Thái Lan đem về trồng tỏa bóng mát xanh rờn. Cảnh những khóm nhài, tầm xuân từ mảnh vườn trước cửa thoang thoảng hương thơm. Sau nhà sàn là vườn quả. Cây vú sữa đem từ miền Nam ra cành lá sum xuê đứng giữa những hàng cam Hải Hưng trĩu quả vàng tươi và hàng trăm loại cây quí thuộc trên bốn mươi họ thực vật do các Bộ Nông Nghiệp, Bộ Lâm Nghiệp và các địa phương trong nước đưa về trồng. Có nhiều cây đặc sản nổi tiếng như Bưởi Phúc Trạch, Thanh Hóa, Biên Hòa, Mê Linh; Cam Xuân Mai, Vân Du, Xã Ðoài, Sông Con; Quít Hương Cầm, Lý Nhân; Táo Thiện Phiến, Ngọc Hồ, Sông Mai, Ðông Mỹ; Hồng Tiên Ðiều chiết từ cây hồng của quê hương thi hào Nguyễn Du...

Ngoài ra còn có cả những loại cây hiếm quí mua từ nước ngoài như 11 cây ngâu hoa, trồng cạnh nhà sàn, 5 cây bụt mọc quanh ao, 36 loài cau khác nhau, cây tre bụng Phật v.v...

Tầng dưới nhà sàn được lát bằng loại gỗ quí đánh bóng sáng như gương, trong phòng lớn 12 chiếc ghế tựa xếp quanh chiếc bàn rộng, góc nhà có 4 máy điện thoại đặt trên bàn nhỏ. Cạnh đó còn úp chiếc mũ sắt bộ đội thời kỳ Mỹ bắn phá miền Bắc, dưới lòng đất có một hầm xây kiên cố (cũng tại phòng này năm 1958, Hồ Chí Minh triệu các ủy viên Bộ Chính trị đến họp để quyết định dâng hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa cho Trung Cộng, thời kỳ này họ Hồ kiêm luôn 3 chức vụ quan trọng: Chủ tịch Ðảng, Tổng bí thư, Chủ tịch nhà nước. Trường Chinh phải từ chức Tổng Bí Thư sau Cải Cách Ruộng Ðất đến ngày 10/9/1960 đại hội Ðảng Lao Động Việt Nam (tức Ðảng CS) mới bầu Lê Duẩn làm Tổng Bí Thư Thứ Nhất).

Trở lại câu chuyện nhà sàn, từ tầng dưới có cầu thang lên gác có chiếc chuông nhỏ để báo cho Hồ Chí Minh biết có khách đến thăm, tầng trên lầu có hai phòng chính làm bằng gỗ trắc, ướp xạ hương, đánh bóng nhẵn như ngà. Nơi ông thường hành lạc với các cô gái miền núi, và các con cháu liệt sĩ Miền Nam tập kết ra Bắc. Chọn những cháu xinh đẹp vào múa hát. Thật là vinh dự cho các linh hồn tử sĩ !...

Từ nhà sàn nhìn ra ao cá, nghe tiếng vỗ tay là cá kéo lên đớp mồi, xôn xao cả một góc ao. Hàng mấy chục loài hoa phong lan đẹp, như quế lan hương, phi diệp, da báo, tai trâu, vây rồng được ghép lên những cây bàng nở hoa quanh năm bên bờ ao.

Nhà sàn, nơi hành lạc của ông vua vô sản là một sáng kiến lạ lùng, không giống ai nhưng nếu được kinh doanh trong thời kỳ kinh tế đổi mới thì lợi nhuận rất cao, nên làm thí điểm ở Hà Nội và Sài Gòn.

Về chuyện làm nhà sàn cũng có nguyên nhân sâu xa tiềm ẩn. Ðó là những kỷ niệm hành lạc của Hồ Chí Minh với các cô gái miền núi. Hồi ấy Trần Ðăng Ninh, một công thần trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp ở vùng rừng núi Bắc Bộ, đã có công săn tìm được nhiều cô gái Thái xinh đẹp mê hồn bên dòng suối Nạn Cỏ, hay bên con thác Cà Nàng ở Quỳnh Nhai (Sơn La) để cho Hồ Chí Minh hành lạc ở nhà sàn. Ðến khi về tiếp quản Hà Nội, ông có sáng kiến làm ngôi nhà sàn và ra lệnh cho các cận thần tìm gái miền núi để ông hành lạc cho đúng hương vị.

**********

Năm 1952, Trần Ðăng Ninh lúc bấy giờ làm Tổng Cục Hậu Cần cho nhân viên đi khắp các tỉnh miền núi để tuyển chọn các cô gái xinh đẹp. Họ đã phát hiện ra nàng Xuân, một cô gái Mường tuyệt đẹp, “mấy lần Ninh đích thân đến gặp cô, cuối năm 1954, thì đem xe đến đón cô Xuân về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ.” (dẫn trong thư tuyệt mệnh của vợ chồng Nguyễn thị Vàng.)

Thời phong kiến Ðế Vương là chúa tể thiên hạ, có tất cả mọi quyền hành đế vương thích hưởng thụ cái gì tất nhiên được thoải mái hết mức mà dục vọng của con người là vô bờ vô bến, lòng ham muốn vô cùng vô tận. Vui đến cùng tận, tất nhiên là sẽ dẫn đến ăn chơi xa xỉ cực độ. Mỹ nhân nhiều vô kể. Thời cách mạng vô sản cũng vậy; Ðiều khác nhau là ông vua dép lốp xứ Nghệ lại mang trên mình đầy những huyền thoại: “huyền thoại về gia đình cách mạng”, (mặc dù hoàn toàn không phải vậy), “huyền thoại về lên đường cứu nước”, (mặc dù hoàn toàn không phải vậy), “huyền thoại về giải phóng nô lệ”, (mặc dù hoàn toàn không phải vậy), “huyền thoại về người cha già dân tộc”, đã in sâu vào tâm thức nhiều thế hệ. Nhưng không ai biết rõ lai lịch tông tích của hắn, cũng không có nguồn tài liệu nào đáng tin cậy, nguyên ngày, tháng, năm sinh của hắn, tên họ của hắn, Nguyễn hay Hồ? cũng vẫn còn là một bài toán hóc búa đối với các sử gia đương đại.

Còn những chuyện tồi bại hắn làm càng ngày càng trở nên rõ ràng, mặc dù có nhiều người còn ngộ nhận là do hậu quả tuyên truyền của chế độ cộng sản về sự hoàn hảo của người cha già dân tộc, chẳng lẽ lại làm những chuyện đồi bại độc ác thế ư? Xét về mặt tâm lý thì ở một phương diện nào đó, với Hồ Chí Minh, 9 năm trên rừng chịu nhiều gian khổ, nay chiếm đoạt được cả thiên hạ. Ðó là cả một pho sử đầm đìa máu và nước mắt của lê dân. Trong đó có nhiều cô gái bất hạnh!

Các triều đại phong kiến, mỹ tửu là những thứ không thể thiếu được trong cung đình. Thời đại cách mạng cũng giống như các Hoàng Ðế phong kiến Trung Hoa đều rất thích ca múa yến tiệc và gái...

Nhưng nó hóa trang rất khéo, bên ngoài là những màn kịch cần, kiệm... bên trong là một cuộc sống cực kỳ xa xỉ. Xung quanh nhân vật Hồ Chí Minh, có nhiều chuyện về đức khiêm nhường cần kiệm của ông trong đó có chuyện đôi dép cao su mà dân Bắc ai cũng được nghe, sau này được một trí thức miền Nam theo Việt cộng vào bưng là Lữ Phương thuật lại trong bài “Huyền thoại Hồ Chí Minh” như sau: “Chuyện đôi dép râu, Bác Hồ đi dép râu thì ai cũng biết. Bác đi một đôi dép đến mòn lẳn. Cậu bảo vệ đề nghị Bác thay nhiều lần nhưng Bác nhất định không chịu. Cuối cùng nài nỉ mãi không được, cậu đã phải lén lấy mấy đôi dép ấy đi đổi, khi phát hiện, Bác không vừa lòng và nhất quyết bắt cậu bảo vệ đi lấy lại đôi dép cũ.”

Cung cách ứng xử của Hồ Chí Minh mặc dù chỉ được cán bộ kể lại nhưng nó thường được coi như tấm gương để toàn đảng, toàn dân học tập. Trong đó tác phong giản dị, cần, kiệm được coi như phương châm sống. “Bác là một tấm gương sáng, tôi nguyện suốt đời noi theo.” Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu. Xin xem hình ảnh trên internet về tư gia hoành tráng kiêu sa của cựu Tổng Bí Thư Lê Khả Phiêu, “Scandal” ngàn vàng, “Người đầy tớ của dân”, người nguyện theo Bác Hồ... Tuy nhiên, ngay từ đầu triều đình vô sản, mọi chế độ vẫn noi theo thời phong kiến, hình như nó có duyên nợ gắn bó... ngay cả về ẩm thực.

Việc ẩm thực nơi cung đình vua vô sản thật nhiều dạng, nhiều vẻ. Món ăn của vua rất phong phú. Người dân chưa hề nhìn thấy hay ngửi thấy. Bởi các đầu bếp, các nhân viên trong cung đình tuyệt đối không được lộ ra bên ngoài. Không vì một lý do gì đó mà để lọt ra ngoài. Đó là một trọng tội, tội tiết lộ bí mật quốc gia sẽ bị nghiêm trị. Chỉ có Ủy viên Bộ chính trị mới biết.

Lo việc ăn uống trong cung đình. Có hai bộ phận do một Ủy Viên Trung Ương Ðảng cầm đầu. Một đoàn chuyên gia bác sĩ ẩm thực phái các chuyên viên sang Bắc Kinh nghiên cứu học tập những tài liệu cổ của vua chúa Trung Hoa về thực hành, xây dựng các nông trường chăn nuôi gia súc riêng như Gấu, Hươu, Dê, các loại chim, lấy giống vịt từ Bắc Kinh, lúa gạo thơm thượng hảo hạng có nơi trồng và cung cấp. Cán bộ cao cấp có cửa hàng riêng ở phố Tôn Ðản Hà Nội, không lẫn lộn với dân. Còn về chủng loại thực phẩm phong phú, lại thêm nhiều đặc sản từ bốn phương cống tiến. Hoàng đế vô sản có thể nói là được tận hưởng khẩu phúc, thưởng thức hết mọi sơn hào hải vị trong thiên hạ. Rượu cũng có rất nhiều loại quý mua từ nước ngoài...

Hàng mấy chục người nấu nướng với đầu bếp chính, thức ăn đồ uống trong triều đình vua vô sản rất phong phú, đa dạng, hương vị luôn luôn thay đổi. Tập trung tất cả những đầu bếp giỏi trong nước, nghệ thuật không đâu sánh kịp, gấu béo, hươu non, thịt dê nướng hết sức cầu kỳ. Tổng thống các nước đế quốc phải thèm “nhỏ dãi” trước những món cao lương mỹ vị của các ông vua vô sản như Hồ Chí Minh. Các vị đó chưa biết tận hưởng.

Yến tiệc tối 30 Tết, trước thềm năm mới năm 1955, như tưới thêm máu, bơm thêm sinh khí cho Hồ Chí Minh. Các cháu thiếu nhi ca hát vừa xuống khỏi sân khấu thì viên Bộ Trưởng Công An Trần Quốc Hoàn mang nàng Xuân đến dinh Chủ tịch.

Vừa mới thấy Xuân, họ Hồ không thể tự kiềm chế được, đã bảo nàng vào phòng tắm gội trong suối nước nóng, để được ngắm nhìn thân thể kiều diễm của nàng. Da thịt Xuân nõn nà như tuyết, mịn màng mềm mại, sau khi bước ra khỏi suối trông mong manh yểu điệu như tiên, lại thêm khí chất miền núi ngây thơ.

Ở trên dinh Chủ tịch, hay nhà sàn ở đâu cũng lộng lẫy đáng yêu. Nàng mang một ma lực quyến rũ riêng hết sức tự nhiên thanh khiết của cô gái miền núi. Tưởng chừng không một người đàn ông nào kháng cự được. Thời gian ấy không một mỹ nhân nào có thể cạnh tranh được với nàng, ngay cả đến các cháu miền Nam còn non mơn mởn cũng không có được. Khi mùa hạ nóng nực họ Hồ và Xuân ở nhà sàn hoan lạc thâu đêm. Ở cái tuổi ngoài 60, sức khỏe của ông còn tốt. Da hung hung đỏ mái đầu hoa râm, chòm râu bạc, đôi mắt linh hoạt, sắc bén, hiếu sát.

Ông đã từng ngủ với gái Pháp, gái Nga, gái Tầu, gái Thái, các cháu miền Nam... đủ mùi vị như các loài hoa ông trồng. Nhưng không một nàng nào được lâu, chỉ có Xuân là gần được 2 năm. Ông đã ban cho nàng ân sủng, nàng có thai thằng Trung khi cùng chung chăn gối với ông ở ngôi nhà sàn này, khoái lạc đến tột đỉnh, để lại kỷ niệm thằng Nguyễn tất Trung không có giấy khai sinh, không có nhân khẩu, hiện còn bị Bộ Nội Vụ quản lý ở Hà Nội!

Sau khi được đắc sủng, dung nhan nàng Xuân càng rạng rỡ yêu kiều không ai bằng. Nhưng ai đoán được lòng người. Có lẽ lúc đó chỉ có tên Bộ Trưởng Công An Trần quốc Hoàn là đoán được ý họ Hồ... nên y được hưởng sái nhì.

Cuộc đời hồng nhan bạc phận! Những cảnh hoan lạc trôi theo gió. Chỉ còn lại những giọt nước mắt cho người thân của nàng! Cùng với bao nhiêu tấm thảm kịch đã xảy ra cho các cô gái bất hạnh khác! Trong khi đó, những vầng hào quang phủ kín tội ác, che lấp tất cả sự thối tha rữa nát, mà bộ máy tuyên truyền của Ðảng Cộng Sản hết lớp này đến lớp khác, chúng biến kẻ sát nhân thành thánh nhân.


Các nhân chứng

Vì nhân chứng quan trọng, chúng tôi để nguyên văn lá thư dưới đây:

Bức Thư Mật liên quan đến cuộc đời của Hồ Chí Minh.

Vợ chồng Nguyễn thị Vàng, và ông Hoàng Dũng, Ủy Viên Trung Ương Đảng, Bí Thư của ông Nguyễn văn Linh, Huỳnh Thị Thanh Xuân, cùng với thư của GS Sử Học Nguyễn Ngọc Lan gửi cho Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh.

8/20/2006

Bức Thư Mật liên quan đến cuộc đời của Hồ Chí Minh

(Lưu giữ tại văn phòng Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam)

Cao Bằng ngày 29 tháng 7 năm 1983.

Kính gởi Ông Nguyễn hữu Thọ Chủ tịch quốc hội nước Cộng Hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.

Tôi là một thương binh đã 25 năm nay vô cùng đau khổ, không dám hé răng với ai. Không phải chỉ vì vết thương bom đạn, chiến tranh mà là một vết thương lòng vô cùng nhức nhối. Nay tôi sắp được từ giã cái xã hội vô cùng đen tối này đi sang thế giới khác, tôi phải chạy vạy rất khó khăn mới viết được bức thư này lên Chủ tịch, hy vọng ông còn lương tri, lương tâm đem ra ánh sáng một vụ bê bối vô cùng nghiêm trọng tàn ác, mà người vợ chưa cưới của tôi là một nạn nhân. Nay tôi hy vọng những tên hung thủ được lột mặt nạ trước công chúng, không để cho chúng ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.

Nguyên từ năm 1954 tôi có người yêu tên Nguyễn thị Vàng, 22 tuổi quê làng Hà Mạ, Xã Hồng Việt, huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng. Cô Vàng có người chị họ là Nguyễn thị Xuân, tên gọi trong gia đình là cô Sang tức Minh Xuân. Tôi nhập ngũ đi bộ đội cuối năm 1952. Cô Vàng và cô Xuân tình nguyện vào công tác hộ lý trong một đơn vị quân nhụ. Ðược mấy tháng sau ông Trần Ðăng Ninh, Tổng cục trưởng Tổng cục hậu cần mấy lần đến gặp cô Xuân. Ðầu năm 1955 thì đem xe tới đón về Hà Nội, nói là để phục vụ Bác Hồ. Ðược mấy tháng sau thì cô Xuân cũng xin cho cô Vàng về Hà Nội, ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm với cô Xuân và cô Nguyệt con gái ông Hoàng văn Ðệ cậu ruột cô Xuân.

Ðã luôn 2 năm tôi chỉ được tiếp thư chứ không được gặp cô Vàng, người yêu của tôi. Nhưng khoảng tháng 10 năm 1957 tôi bị thương nhẹ được đưa về điều trị tại bệnh viện Huyện Hoà An. Chúng tôi vô cùng sung sướng lại được gặp nhau. Trong một tuần lể cô Vàng kể lại mọi nỗi đau xót cô đã gặp phải cho tôi nghe. Tôi xin ghi lại tỉ mỉ những lời cô Vàng tâm sự với tôi, mà không bao giờ tôi có thể lãng quên đi được. Vàng kể:

Ðầu năm 1955 cô Xuân được về gặp Bác Hồ. Bác Hồ định lấy cô Xuân làm vợ chính thức. Mấy tháng sau chị Xuân xin cho em cùng về ở trên gác nhà 66 Hàng Bông Nhuộm, Hà Nội. Còn tầng dưới thì cho ông Nguyễn Quý Kiên, Chánh văn phòng Thủ tướng phủ ở. Vì các lãnh đạo không cho chị Xuân cùng ở với Bác trên nhà chủ tịch phủ, giao cho ông Trần Quốc Hoàn,

Bộ trưởng bộ Công an trực tiếp quản lý chị Xuân, cho nên chị Xuân mới được đem về ở 66 Hàng Bông Nhuộm, nhà của Công an.

Cuối năm 1956 chị Xuân sinh được một cậu con trai. Cụ Hồ đặt tên là Nguyễn Tất Trung. Em có nhiệm vụ bế cháu. Ông Bộ trưởng Công an có nhiệm vụ quản lý chị Xuân nên thường đến luôn. Nhưng một buổi tối vào khoảng mồng 6 hay mồng 7 tháng 2 năm 1957, ông Hoàn tới, ngồi nói chuyện vu vơ một tí rồi nắm tay chị Xuân, kéo vào một cái buồng xép, từ cầu thang đi lên, vật chị Xuân lên một cái giường nhỏ, định hãm hiếp. Chị Xuân bị nhét khăn vào miệng nhưng vẫn ú ớ la lên. Em hoảng sợ la tru tréo. Còn chị Nguyệt sợ quá, rúm người lại ngồi một góc tường. Nghe tiếng cửa sổ nhà dưới xô xầm vào tường, lão Hoàn bỏ chị Xuân ra, rút khẩu súng lục trong túi áo hoa lên nói to: “Chúng mày im mồm, không ông cho chết hết” rồi hầm hầm chạy xuống thang ra ô tô chuồn.

Chị Xuân thất thểu đi ra khóc nức nở, ôm choàng lấy em. Em hỏi nó nắm tay chị, sao chị không văng vào mặt nó để nó dắt đi? Chị Xuân vừa nức nở vừa nói: Ðau khổ nhục nhả lắm. Chị phải nói hết để các em tha tội cho chị. Từ hôm chị mới về nhà này, có một bà già độ 60 tuổi ở một buồng dưới nhà, vợ một cán bộ Công an đã chết, lên thân mật nói chuyện với chị rằng: Sao cô ở đây một mình? Bạn đàn bà để tôi nói thật cho cô biết. Cái lão đem cô về đây là một tên côn đồ lưu manh, dâm ô tàn ác vô kể. Tôi xin kể một vài chuyện cho cô nghe. Ông Lương Khánh Thiện, một Uỷ viên Trung ương, bị đế quốc Pháp giết có con gái tên là Bình. Chị Ðường, vợ anh Thiện đem con gái gởi bác Hoàn nhờ bác tác thành cho. Lão Hoàn đã hiếp nó, nó chửa rồi chọn một tên lưu manh vào làm Công an để gả cô Bình làm vợ. Lão lại đem một cô gái có nhan sắc nhận là cháu, cũng hiếp cô gái này cho tới chửa, rồi giết chết quăng xác xuống hồ Ha Le để khỏi mang tiếng. Cán bộ Công an nhiều người biết chuyện của nó, nhưng không ai dám hở răng, vì sợ lão vu cho tội gì bắt giam rồi thủ tiêu.

Nghe chuyện đó chị cũng khủng khiếp, nhưng lại nghĩ là nó đối với mọi người khác, còn đối với mình thì nó đâu dám. Nhưng chỉ được mấy hôm sau chị nghe tiếng giầy đi nhè nhẹ lên gác, chị chạy ra thì thấy nó đi lên nhếch mép cười một cách xõ lá. Nó chào chị rồi đi thẳng vào nhà, nó ôm ghì lấy chị vào lòng rồi hôn chị.

Chị xô nó ra nói:

“Không được hỗn, tôi là vợ ông chủ tịch nước”.

Nó cười một cách nhạo báng:

“Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh bà nằm trong tay tôi”.

Rồi nó lại nói: “Sinh mệnh tất cả dân tộc Việt nam, kể cả bố mẹ anh chị nhà bà cũng nằm trong tay tôi. Tôi muốn bắt ở tù, thủ tiêu đứa nào tuỳ ý. Và tôi nói cho bà biết cụ già nhà bà cũng không ngoài tay với của tôi”.

Rồi nó rút khẩu súng lục dí vào ngực chị.

Chị ngồi xụp xuống ghế nói:

“Anh cứ bắn đi”.

Nó cười khì khì :

“Tôi chưa dại gì bắn. Tôi tặng bà vật khác”.

Nó dắt súng vào túi quần rồi rút ra một sợi dây dù to bằng chiếc đũa, đã thắt sẵn một cái thòng lọng. Nó quàng cái tròng vào cổ chị rồi kéo chị đi lại cái giường kia, đẩy chị nằm xuống, rồi đầu sợi giây nó buộc vào chân giường. Chị khiếp sợ run như cầy sấy.

Nó nói “Bây giờ bà muốn chết tôi cho bà chết”. Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống nó ngắm nghía ngâm nga:

Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,

Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?

Phẩm tiên đã đến tay phàm,

Thì vin cành quýt cho cam sự đời.

Rồi nó nằm đè lên hiếp chị. Chị xấu hổ lấy tay che mặt.

Nó kéo tay chị nói: “Thanh niên nó phục vụ không khoái hơn ông già mà còn vờ làm gái”.

Xong nó cởi thòng lọng cho chị, rồi nó ngồi bên chị tán tỉnh hàng giờ:

“Anh thương em lắm. Người ta gặp hạnh phúc phải biết hưởng hạnh phúc. Nếu em thuận tình thì muốn gì cũng có.”

Nó đeo vào tay chị một chiếc nhẫn vàng, chị đã ném vào nhà xí.

Nó lại dặn: “Việc này phải tuyệt đối bí mật, nếu hở ra thì mất mạng cả lũ và tôi nói cho cô biết ông cụ tin tôi hơn cô” .

Rồi từ đó chị biến thành một thứ trò chơi của nó. Thấy bóng dáng nó chị như một con mèo nhìn thấy con cọp, hồn vía lên mây. Nó muốn làm gì thì tuỳ ý nó. Trong mấy tháng trời chị tính quẩn lo quanh, không biết tâm sự với ai mà không làm sao thoát khỏi nanh vuốt của nó. Nhớ lại lời nói của bà già, chị liền xin bác cho hai em về đây, mong tránh được mặt nó. Nhưng những hôm Công an gọi các em đi làm hộ khẩu, đi làm chứng minh thư lâu hàng buổi là nó tới hành hạ chị. Nó bảo chị phải nói cho hai em biết. Phải biết câm cái miệng nếu bép xép thì mất mạng cả lũ. Hôm nay nó lại đây trắng trợn như vậy vì nó tưởng chị đã dặn hai em rồi. Bây giờ việc đã xẫy ra chị thấy rất nguy hiểm.

Em nói: “Hay là chị em ta trốn đi”.

Chị Xuân nói: “Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin bác cho mẹ con ra công khai”.

Bác nói: “Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý, nhất là mấy ông Trường Chinh, Lê Ðức Thọ, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa”.

Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: “Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không?”

Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội. Còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu”.

Bác nói: Không nhẽ ông Bộ Trưởng Công an nói dối.

Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vu gì đó để định kế thoát thân nếu việc của nó bị bại lộ Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta.

Chị Xuân lại nói: “Chị bị giết cũng đáng đời, chị rất hối hận xin hai em về đây để chịu chung số phận với chị”.

Em thấy nguy hiểm vì tên Hoàn đã nổi tiếng ở Bộ Công an là một tên dâm bôn vô cùng tàn ác. Ðến độ một tuần sau, vào 7 giờ tối ngày 11 tháng 2 năm 1957, ngày em còn nhớ như đinh đóng cột. Một chiếc xe com măng ca thường đón chị Xuân lên gặp bác Hồ, anh Ninh xồm, người bảo vệ Trần Quốc Hoàn chuyển lên bảo vệ Bác, vào gặp chị Xuân nói lên gặp Bác. Chị Xuân mặc quần áo, xoa nước hoa rồi ra đi. Sáng hôm sau, 12 tháng 2, một nhân viên Công an Hà Nội đến báo tin chị Xuân gặp tai nạn ô tô chết rồi, hiện còn để ở nhà xác bệnh viện Phủ Doãn. Em hốt hoảng đưa cháu cho chị Nguyệt, ra lên xe Công an vào bệnh viện. Em không được vô nhà xác, họ nói còn mổ tử thi. Lên một phòng chờ em thấy trong phòng đã khá đông người: Công an, Tòa án, Kiểm sát viên.

Sau một tiếng, hai bác sĩ, một cán bộ Công an, một kiểm sát viên lên phòng chờ, đem theo một tờ biên bản đọc to lên cho mọi người nghe. Tử thi thân thể không có thương tích gì, thấy rõ không bị tai nạn ô tô và cũng không phải bị đâm chém đánh đập gì. Mổ tử thi trong cơ thể lục phủ ngũ tạng cũng không có thương tích gì. Da dầy không có thức ăn, không có thuốc độc. Tử cung không có tinh trùng biểu thị không bị hiếp dâm. Duy chỉ có xương đỉnh đầu bị rạn nức. Mổ sọ não không còn óc, mà chỉ còn nước nhờn chảy tuôn ra. Bác sĩ tuyên bố đây có thể bị chùm chăn lên đầu rồi dùng búa đánh vào giữa đầu. Ðây là phương pháp giết người của bọn lưu manh chuyên nghiệp của nhiều nước đã xử dụng.

Em vô cùng đau khổ chạy về kể chuyện lại cho chị Nguyệt nghe để hai chị em cùng khóc. Ít lâu sau một cán bộ Công an đến bế cháu Trung đi, chúng em không được biết đem đi đâu. Rồi em thì được đi học một lớp y tá của khu tự trị Việt Bắc ở Thái Nguyên. Chị Nguyệt không biết họ cho đi đâu sống chết thế nào. Học mấy tháng thì em được chuyển về bệnh viện Cao Bằng, em khóc luôn, họ cho là em bị thần kinh nên cho về đây điều trị. May lại được gặp anh kể hết mọi chuyện cho anh nghe. Em nghĩ anh chỉ bị thương nhẹ, anh còn sống được lâu anh sẽ nói rõ cho toàn dân biết được vụ bê bối này. Còn em thì chắc chắn sẽ bị chúng giết vì em đã nói vụ này cho nhiều chị em bà con biết. Bọn hung thủ còn theo dõi em. Ở Cao Bằng có hôm em thấy thằng Ninh xồm tới gặp ông bác sĩ bệnh viện trưởng, được ít hôm họ tuyên bố em bị thần kinh được chuyển về điều trị tại Hoà An.

Tôi chỉ được gặp Vàng em tôi có một tháng, đến ngày mồng 2 tháng 11 năm 1957 cô Vàng đi về thăm ông cậu Hoàng văn Ðệ. Hung thủ đi theo rồi giết chết em tôi quăng xác xuống sông Bằng Giang đến ngày mồng 5 tháng 11 mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ. Tôi được tin sửng sốt chạy về cầu Hoàng Bồ thì thi hài đã được kiểm nghiệm và chôn cất rồị Nghe dư luận xôn xao bị đánh vở sọ, đồng hồ vẫn còn nguyên và người nhà đã nhận về chôn cất. Tôi đâm bổ về Hà Nội liên lạc được với một cậu bạn cùng học làm việc ở Toà án Hà Nội. Tôi kể vụ án em tôi bị giết thì bạn tôi sao cho tôi một bản Công Văn Viện Kiểm sát hỏi toà án về vụ em tôi và cô Xuân bị giết. Tôi xin sao bản văn đó trình ông để tiện việc điều trạ Vụ này nhiều người bị giết. Cô Xuân, vợ cụ Hồ Chí Minh, cô Vàng, vợ chưa cưới của tôi, cô Nguyệt, còn nhiều người ở Trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi nói chuyện lại cũng bị giết lây.

Mấy chục năm nay tôi tim gan thắt ruột, nghĩ cách trả thù cho em tôi nhưng sức yếu thế cô đành ngậm hờn chờ chết. Theo Vàng dặn lại, tôi liên hệ với một số cán bộ về hưu Công an, kiểm sát họ cho tôi biết cậu Trung ngày đó đã được đưa về cụ Bằng nuôi. Ðộ 4, 5 tuổi thì gửi cho Chu Văn Tấn, đến năm 13 tuổi là năm 1969 ngày Bác Hồ mất thì giao cho ông Vũ Kỳ, nguyên Thư Ký của Bác, nay là Phó Giám đốc Bảo tàng Hồ chí Minh làm con nuôi. Vũ Kỳ có 2 con đẻ là Vũ Vinh và Vũ Quang, còn Vũ Trung là con nuôi; là con chị Xuân với Bác Hồ. Tôi một thương binh sắp đi qua thế giới khác, máu hoà nước mắt viết thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gởi tới trình ông. Mong ông lưu ý xét cho mấy việc:

1- Các ông sẵn lòng bảo vệ chân lý điều tra cho ra những đứa thủ mưu, thủ ác, chứ không truy xét những người có lương tâm phát hiện lũ tàn ác.

2- Ở xã Hồng Việt bà con bạn hữu chị Xuân vào trạc tuổi 45 trở lên còn khá nhiều đều biết rõ ràng cô Vàng, cô Xuân, cô Nguyệt và chắc gia đình của cô Xuân còn khá nhiều di vật của cô Xuân. Nhưng tất cả mọi người đều khiếp sợ, không dám hé răng. Mong ông cho điều tra thận trọng, bí mật, vì việc điều tra này bị lộ thì cả lô bà con này bị thủ tiêu.

3- Cậu Nguyễn Tất Trung còn sống khoẻ mạnh nhưng việc điều tra lộ ra thì cậu cũng dễ dàng bị thủ tiêu. Tên hung thủ lái xe đón bà Xuân đi giết là Tạ Quang Chiến hiên nay là Tổng cục Phó Tổng cục Thể dục Thể thao. Còn tên Ninh xồm thì chúng tôi không hiểu đã leo lên chức vụ nào rồi.

Từ thế giới khác kính chúc Ngài nhiều hạnh phúc.

Vợ chồng Nguyễn thị Vàng

++++++++++++++++++++++++++++

Bằng chứng đã rõ ràng, cái tên sát nhân, đã từng lừa dối hết cả dân chúng trong cũng như ngoài nước, lại muốn nổi tiếng “cả cuộc đời vì nước vì non”. Bằng cách giết vợ, không nhận con để người đời “kính nể” thì quả là cổ kim không thể có.

Cuộc đời Hồ Chí Minh “chuyên công nghệ diễn kịch” vĩ đại… Sản phẩm của sự dối trá. Dối trá là một đặc trưng không thể thiếu, làm nền móng cần thiết để xây dựng sự nghiệp chính trị. Có vợ, chơi gái mà làm ra vẻ thanh khiết, đạo đức. Ông đã lấy vợ sinh con, nhưng giấu giếm không muốn cho bất cứ ai biết, nên thằng Nguyễn tất Trung có cha, mà không được phép gọi một tiếng. Chỉ vì bố nó làm chủ tịch nhà nước, nổi tiếng đạo đức (!) mà Thằng Trung đâm ra mồ côi cả cha lẫn mẹ! Biết có cha mà không được gần. Biết cha cao cả vĩ đại mà phải ngậm miệng. Giọt máu của mình không thương yêu nó, làm sao có thể thương yêu những đứa trẻ khác? Nói chi đến thương yêu đồng bào? “Xạo”. Con là tình yêu, là hạnh phúc, là niềm hy vọng lớn lao nhất của đời người tại sao Hồ Chí Minh bỏ qua không thương yêu? Điều này mâu thuẫn gắt gao với lương tri và lý trí sáng suốt. Bỏ tình cha con máu mủ để được tiếng hão… Thằng Trung với cái tang của mẹ là một thảm kịch đen tối trong tuổi thơ, đã vĩnh viễn chôn vùi cùng với cái chết của mẹ, người không bao giờ lên tiếng được nữa. Rồi cả thằng Trung cũng bị bịt miệng.

Hiện thực này tàn nhẫn là để dành cho cả số phận nhỏ nhoi và tội nghiệp của một thằng bé ra đời có cha mà lại không cha! và sớm bị rút khỏi cánh tay âu yếm của người mẹ, thằng Trung cũng ngây thơ không khác gì những đứa trẻ khác để rồi chẳng bao lâu bị tách rời vĩnh viễn bởi cái chết ghê rợn của mẹ, do chính cha nó là thủ phạm! Kẻ chỉ lấy việc hành hạ phụ nữ như những món đồ chơi trong khi mồm nói nào là giải phóng phụ nữ, nào là chống tư tưởng phong kiến, tôn trọng phụ nữ v.v… Nhưng không có gì có thể che đậy được mãi dưới ánh sáng mặt trời. Sự dấu diếm, giả dối cuối cùng cũng bị phát hiện để người đời chiếu các sự kiện mà đánh giá con người thật của ông.

Hồ Chí Minh là hiện thân của qui tắc sống vị kỷ của bọn thống trị cầm quyền lãnh đạo đất nước. Những kẻ đã làm những điều bạo ngược trái đạo lý con người, chính nó là nguyên nhân của những tấn bi kịch của đất nước.

Còn mẹ nó! Nông Thị Xuân, một cô gái xinh đẹp, ngây thơ ở miền núi, ăn nằm với “vĩ nhân”. Khi đã có thằng Trung rồi, lại lầm tưởng Hồ Chí Minh lấy mình làm vợ thật “Cô” xin cho hai mẹ con được ra “công khai” mà nhà kịch sĩ vĩ đại thì lại muốn giữ “tuyệt đối bí mật” để tạo hào quang “cả cuộc đời vì nước vì non nên không lập gia đình”. Thế là cô Xuân bị kịch sĩ ngầm ra lệnh giết chết tức tưởi. Chứ thủ phạm không phải là Bộ Trưởng Công An Trần Quốc Hoàn. Hắn thấy Xuân quá đẹp, bỏ thì phí của trời… nên chơi ghẹ thôi! Đây là vụ án tàn bạo, ghê tởm nhất. Cảnh ngộ cô Xuân thật đau thương khủng khiếp quá! Bi kịch này cho chúng ta thấy rằng Hồ Chí Minh đã làm tất cả những gì có thể làm, kể cả việc giết cả vợ con, với một ý đồ mà ai cũng biết đó là muốn trở thành lãnh tụ nổi tiếng thanh khiết. Chúng ta thử nghe đoạn đối thoại giữa Hồ Chí Minh và cô Xuân dưới đây:

“ Sau ngày sinh cháu Trung, chị thưa với Bác, bây giờ đã có con trai, xin Bác cho mẹ con ra công khai.” Bác nói: “Cô xin như vậy là hợp tình, hợp lý. Nhưng phải được Bộ Chính Trị đồng ý nhất là ông Lê Đức Thọ, Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt đồng ý mới được. Do đó cô đành phải chờ một thời gian nữa”.36

Khi họ Hồ trả lời Xuân vòng vo như vậy, số phận cô gái đã được quyết định rồi. Mà trong số những kẻ được giao nhiệm vụ không ai khác hơn là viên Bộ trưởng công an Trần Quốc Hoàn, kẻ hằng ngày quản lý Xuân…hắn chỉ làm theo đơn đặt hàng, làm theo ám hiệu của chủ. Ðây không phải là vụ giết người duy nhất mà Hoàn thực hiện theo lệnh của Hồ Chí Minh, nhưng vụ giết Xuân không bình thường cũng gây ra nhiều rắc rối về sau.

Nhận được lệnh thủ tiêu nữ thần sắc đẹp, người mà Hoàn thèm dỏ dãi từ khi Xuân mới đến, việc Hồ Chí Minh giao Xuân cho Hoàn với hắn là yến tiệc đã dọn sẵn. Nhưng khi vào bàn tiệc rồi Hoàn vẫn còn thẫn thờ, đầu óc như người trong mơ gã giơ súng lên, nhắm vào tim nàng nhưng vờ lưỡng lự…trong khi máu dê dâng cao tột đỉnh…

Như Xuân đã thuật lại: “Rồi nó lột hết quần áo chị, nó ngồi xuống ngắm nghía ngâm nga:

Rõ ràng trắng ngọc trắng ngà

Đào nguyên lạc lối đâu mà đến đây?

Phẩm tiên đã đến tay phàm

Thì vin cành quýt cho cao sự đời” 37

Trời ơi! Cưỡng lại thế nào được? Hoàn biết rõ Hồ Chí Minh không bao giờ xen vào việc này, nên cứ thả dàn…

Nó lột truồng Xuân ra và vội nhảy lên ngựa, nàng hốt hoảng đẩy hắn ra:

“Không được hỗn, tôi là vợ ông Chủ Tịch nước.”

Nó cười một cách nhạo báng:

“Tôi biết bà to lắm nhưng sinh mệnh của bà nằm trong tay tôi”.

Rồi từ đó chị biến thành trò chơi của nó.” 38

Mối liên hệ tình dục giữa Hoàn và Xuân được đẩy lên cao, nàng Xuân có sức cám dỗ quá mãnh liệt. Nhưng không thể kéo dài hạn định mà Hồ Chí Minh đã giao cho hắn, nên hắn buộc lòng phải giết Xuân. Chúng ta lại nghe một đoạn đối thoại nữa giữa Hồ Chí Minh và Xuân để sự việc được sáng tỏ hơn.

“Mấy tuần trước Bác lại hỏi chị: “Các cô ở đó có nhiều người lạ tới thăm phải không?”

Chị thưa: “Ba chị em không có ai quen biết ở Hà Nội, còn bà con ở Cao Bằng không biết chị em ở đâu.”

Bác nói: “Không nhẽ ông Bộ trưởng công an nói dối.”

Chị suy nghĩ mãi mới thấy rõ, nó muốn vu cáo chị em ta liên hệ với gián điệp hoặc đặc vụ gì đó để định kế thoát thân nếu việc ấy bị bại lộ. Bây giờ ta trốn cũng không làm sao thoát khỏi tay nó, mà nó còn vu cáo giết hại ba chị em chúng ta.” 39

Trời! Giữa miệng hùm hang sói, ai mà cả gan dám bén mảng đến? Nàng Xuân, không hiểu (ba chị em cô ở đây) là món hàng bí mật quốc gia số 1, nó quan trọng đến mức đích thân viên Bộ Trưởng CA đứng ra quản lý, trực tiếp đưa Xuân đến Dinh chủ tịch khi Hồ Chí Minh cần giải quyết sinh lý, rồi lại trực tiếp đưa nàng về, trên gác nhà 66 Hàng Bông, tuyệt đối bí mật đến như thế! Món đồ chơi quốc bảo được giữ gìn đến như thế! Mà lại có khách lạ đến thăm thì kịch sĩ hơi dở và vụng về ở màn trình diễn này rồi. Hơn nữa lời Tổng Bí Thư Lê khả Phiêu (người cha đẻ của cái lực lượng vũ trang) mà ngây thơ vậy sao?

Ở đây nó biểu lộ trực tiếp cách suy nghĩ và hành động: Loanh quanh vòng vo với những câu hỏi và trả lời giữa chừng qua đó để lộ sự nguy hại cho đến khi nó bộc lộ tính cách tàn nhẫn.

Tội nghiệp cho những cô gái xinh đẹp dễ thương như Xuân! Ngay cả trong sự phù phiếm và vô trách nhiệm với đứa con trai Nguyễn Tất Trung hoàn toàn là sự thật, nó là sản phẩm, đồng thời là nạn nhân của Hồ Chí Minh sinh ra. Ông là người ích kỷ và tàn nhẫn, bởi thế, ngay khi cô gái tưởng rằng có thể sống hết mình vì ông, với tất cả sự trong trắng ngây thơ!

Ôi bao nhiêu cô gái xinh đẹp bị cầm tù rồi biệt tăm! Chỉ để giữ danh tiếng cho Chủ Tịch, họ chỉ cần giải quyết sinh lý tiêu diệt tình cảm của các cô đối với người thân, ngay cả cha mẹ của các cô cũng chẳng mang lại ơn phước gì, nếu không phải là tai họa như Nông Thị Xuân. Cô gái tưởng như trời phú cho sắc đẹp, chỗ mạnh nhất của người phụ nữ. Đã bạc mệnh và còn là nguyên nhân gây thảm kịch cho nhiều người thân. Theo lá thơ tuyệt mệnh của vợ chồng Nguyễn Thị Vàng gửi cho ông Nguyễn Hữu Thọ - Chủ Tịch Quốc Hội Việt Nam thì cô Nguyệt, cô Vàng và nhiều người ở trường y tá Thái Nguyên nghe chuyện Vàng kể đi, nói chuyện lại, tất cả những người nghe đều bị giết.

Câu chuyện thương tâm và ghê tởm này được vợ chồng Nguyễn Thị Vàng, một thương binh thân nhân của Xuân kể lại, ông bi quan vì ông nhận thấy thời đại mình thật “điên đảo, dã man”. Nguyên nhân của những tình trạng “điên đảo, dã man” đó ở đâu? Ai đã giết những đứa em gái của ông, ông chỉ nhắc ra Trần Quốc Hoàn, còn kẻ giấu kín tâm địa của chúng, khoác áo đạo đức ngụy trang, ông khó có thể nhận ra chân tướng của nó, trong thư gửi cho Chủ Tịch Quốc Hội Cộng Sản - Nguyễn Hữu Thọ, ông Viết: “Tôi, một thương binh sắp đi qua một thế giới khác, máu hòa nước mắt viết, thư này nhờ một người bạn chí tình, thành tâm bảo vệ lẽ phải, đánh máy bức thư gửi tới ông. Mong ông lưu ý xét cho.” - Ai mà dám xét Bác với Ðảng?...

Những điều trình bầy trong thư của người thương binh hôn phu của cô Vàng, em ruột cô Xuân khá cụ thể và đầy đủ. Ðây là một câu chuyện có thật trăm phần trăm, chứ không phải giai thoại, do nhiều nhân chứng thuật lại.

Còn nhiều cảnh ngộ của các cô gái khác, tôi chỉ nhắc lại chuyện cô Xuân vì nó có ý nghĩa điển hình mà nhiều người đã biết còn thời gian gần đây người ta đã phát hiện được những đứa con hoang ở vụ án khác thuộc loại “rậm rạp” thời gian và tội ác! Sự thối rữa trong những hoang tưởng thì còn nhiều…Tôi tạm trích dẫn bài viết của ông Hoàng Dũng cán bộ Văn Phòng Trung Ương Đảng trong bài “Những bí ẩn về tân thủ tướng Việt Nam” nhưng chỉ nói riêng về những sự kiện liên quan đến Hồ Chí Minh. Ông Dũng viết:

“Trong quá trình công tác tôi có may mắn được làm việc một khoảng thời gian ngắn với cố Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh. Khoảng thời gian này không dài nhưng lại là khoảng thời gian rất quý báu đối với tôi bởi vì đã học được nhiều điều và hiểu được nhiều điều từ cơ quan quyền lực cao nhất, từ người đứng đầu bộ máy lãnh đạo Việt Nam. Trong đó có những câu chuyện mà qua hàng chục năm giữ kín, “đào sâu chôn chặt”, suy xét, kiểm nghiệm đến ngày hôm nay mới dám nói ra, bởi vì nó có liên quan đến những con người và hoàn cảnh lịch sử của đất nước ta trước đây, ngày hôm nay, và có thể nó sẽ ảnh hưởng đến tương lai dân tộc ngày mai.(…).

Sau này khi cụ Nguyễn Văn Linh thôi giữ chức Tổng Bí Thư Ðảng, tôi không còn được làm việc với cụ nữa, nhưng thỉnh thoảng có dịp ra vào công tác tôi vẫn ghé thăm cụ, hoặc là ghé thăm Bình, vài tháng một lần. Mỗi lần gặp cụ lại hỏi thăm tình hình công việc, tình hình tổ chức nội bộ, tình hình các địa phương. Cụ tỏ thái độ than phiền với những người kế nhiệm và đặc biệt kêu ca về khâu tổ chức cán bộ và quy hoạch lãnh đạo cao cấp.

Vài năm sau đó nữa, lúc này sức khỏe của cụ tỏ ra đã yếu hơn trước rất nhiều, cụ ít đi lại hơn. Một buổi tối tôi đến thăm cụ, thấy cụ có vẻ không được khỏe, tôi không dám nói chuyện nhiều, sau khi hỏi thăm cụ vài câu tôi định đứng dậy ra về, nhưng cụ bỗng khoát tay ra hiệu bảo tôi hãy ở lại chơi và sau đó lại kéo tôi vào buồng trong. Tôi hiểu là cụ muốn trao đổi một chuyện gì đó, chắc là quan trọng hơn.

Vừa ngồi xuống là cụ hỏi ngay: mấy hôm nay cậu có theo dõi vụ Tổng công ty Tracodi mà báo chí vừa đưa tin không? Tôi đáp: Dạ, có biết chứ ạ! Nhưng cũng chưa rõ lắm đúng sai thế nào? Cụ lại quay sang hỏi: Thế cậu có biết cái tay Tổng Giám Đốc Phan Thanh Nam là người như thế nào không?

Tôi chợt hiểu ra có điều gì đó quanh vấn đề này, thời gian trước đó đã có dư luận xôn xao quanh chuyện Phan Thanh Nam là con rơi của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, cánh cán bộ văn phòng chúng tôi đều có nghe nhưng vẫn không biết thực hư thế nào, nên cũng chỉ coi như một tin đồn nhảm.

Bỗng cụ ghé sát gần tôi và nói: Những chuyện này mà tao không nói cho các cậu thì sau này sẽ chẳng có ai được biết đến nữa.

Thế là bỗng nhiên tôi trở thành một nhân chứng để ghi nhận những sự kiện ghê gớm thế này, những sự kiện đã gắn liền với lịch sử Cách mạng Việt Nam nhưng không bao giờ được chép trong sử sách và nó là một bộ mặt thật hoàn toàn khác với những gì mà nhân dân được biết về lãnh đạo Việt Nam.

Theo cụ Nguyễn Văn Linh kể thì Bộ chính trị lúc bấy giờ, (tất nhiên đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Ðức Thọ chỉ đạo, điều này thì sau này không ai là không biết), biết rằng cụ Hồ gặp những thiếu thốn và khó khăn về tình cảm cá nhân, như chuyện muốn nối lại mối tình duyên với người vợ cũ ở Trung quốc nhưng đã bị phản đối (đây là một câu chuyện có thật đã được phía Trung quốc công bố từ những thập niên 80, 90 của thế kỷ trước. Về việc này tôi lại nhớ về sự kiện bài báo “Bác Hồ có vợ?” được đăng trên báo Tuổi Trẻ của tác giả Kiến Phước - Trưởng đại diện báo Nhân Dân tại TP. Hồ Chí Minh, chính vì bài báo này mà sau đó Tổng biên tập báo Tuổi Trẻ là Nguyễn Kim Hạnh, cũng chính là vợ ông Kiến Phước, bị mất chức. Sau này có lần đến chơi với hai vợ chồng Kiến Phước - Kim Hạnh ở trên đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, cũng gần khu T78, nhắc lại chuyện này họ lại buồn và phản ứng ghê lắm). Do vậy sau đó Bộ chính trị có bí mật sắp xếp nhiều người phụ nữ khác để chăm sóc và phục vụ cụ Hồ về mặt sinh hoạt tính dục. Ðặc biệt, từ thuở còn thanh niên, cụ Hồ đã có một mối tình đầu rất đẹp với một người con gái miền Nam (sự thật này đã được nhà văn Sơn Tùng sưu tầm và công bố trong bài viết “đi tìm Út Huệ”), do vậy cụ Hồ có một ấn tượng và thiện cảm đặc biệt với những người phụ nữ Nam bộ. Biết thế nên Bộ Chính Trị đã chỉ đạo cho Trung Ương Cục miền Nam, mà lúc này Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung Ương Cục, phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ, đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ Chính Trị.

Thời điểm đó thì Võ Văn Kiệt đang là ủy viên Trung Ương Cục được cụ Nguyễn Văn Linh tin tưởng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt này. Trong số vài cô gái tuyển lựa được lúc đó đang chuẩn bị bố trí bí mật đưa ra miền Bắc, có một cô còn trẻ và rất sắc sảo họ Phan. Giữa lúc đó thì tình hình chiến sự đang diễn ra khá ác liệt nên không thể đưa các cô đi ngay được và rồi không hiểu thế nào mà ông Kiệt lại quan hệ dan díu với chính cô gái họ Phan kia. Ðến lúc sự việc vỡ lở thì cô gái đã có thai được mấy tháng rồi. Thế là cô ta phải ở lại và cái bào thai đó chính là vị tổng Giám đốc Tracodi: Phan Thanh Nam sau này.

Nghe đến đây tôi cảm thấy vô cùng sửng sốt và bỗng thấy rùng mình hết cả người. Rõ ràng người đang kể ra những sự việc đó là một người đã từng giữ trọng trách cao nhất trong Ðảng Cộng Sản Việt Nam, một người trong số vài ba người được biết rõ nhất, chính xác nhất về câu chuyện này, một người trong số vài ba người hiếm hoi biết được những chuyện thâm cung bí sử nhất trong Trung Ương Ðảng Cộng Sản, một người mà cái tuổi đã vượt quá ngưỡng “cổ lai hy” rồi. Như vậy không thể là nói thiếu chính xác hoặc vô căn cứ được, càng không thể là nói xấu tổ chức Ðảng và lãnh tụ được. Như vậy những chuyện tày trời kia là có thật ư?...

“Sau buổi tối hôm ở nhà cụ Nguyễn Văn Linh ra về tôi bàng hoàng và băn khoăn nhiều lắm. Như vậy những thứ được gọi là tư cách, đạo đức, mẫu mực của các lãnh đạo cao cấp của Ðảng ta thật ra chỉ là những thông tin tuyên truyền thôi ư? Và những kẻ bày ra những trò này chắc cũng không ngoài mục đích nhằm thao túng cụ Hồ và thao túng cả Bộ Chính Trị? Vậy thì đã có biết bao cô gái trẻ đã bị đánh mất tuổi thanh xuân và sự trinh trắng ở đó, và để đảm bảo tuyệt đối bí mật của những thông tin này, dứt khoát phải có nhiều người đã bị thủ tiêu hoặc làm cho mất trí nhớ hoàn toàn. Như vậy những câu chuyện đồn thổi về những bóng ma trong quảng trường Ba Đình phải chăng cũng là có thật? Thật bi thảm và khủng khiếp quá!

Những sự việc cụ Nguyễn Văn Linh đã kể lại cho tôi chắc chắn cũng phải còn ít nhất là một vài người khác được biết, thế nhưng cho đến nay vẫn chưa có ai dám công khai nêu lên. Trước thực trạng đầy bất ổn của tình hình chính trị đất nước cùng với tấm lòng cảm mến và kính trọng cố Tổng Bí Thư Nguyễn Văn Linh, tôi nhận thấy chính mình phải có trách nhiệm nói ra những điều này, tôi xin hoàn toàn đảm bảo về tính trung thực và chính xác của sự việc này. Tôi cũng mong rằng sau khi sự thật này được đưa ra ánh sáng thì sẽ có thêm nhiều bằng chứng khác của các vị lão thành Cách mạng, của những ai có may mắn được biết đến những sự việc trên, sẽ bổ sung đầy đủ hơn để bạch hóa hoàn toàn những bí ẩn này.

Thứ nữa, tôi muốn thông báo đến giới trẻ, những người chủ tương lai của đất nước được biết rằng: có rất nhiều những sự thật mà các bạn không có cơ hội được biết đến, mà lẽ ra trong xã hội hiện đại, truyền thông đa phương tiện ngày nay, các bạn cần phải biết tất cả những sự thật, những điều trắng đen rõ ràng để tự xây dựng cho mình những tư duy sống, những quan điểm tự nhiên chứ không phải những ý thức hệ bị cưỡng bức, những tư tưởng bị chỉ đạo.

Cuối cùng, tôi muốn gửi thông tin này đến tất cả mọi người dân với mong muốn rằng nhân dân chúng ta đều càng ngày càng được cởi mở hơn trong tiếp nhận thông tin, tiếp nhận sự thật. Những sự thật lịch sử cần phải được tôn trọng và dần dần cần được giải mã trước công chúng. Những sự việc gây ảnh hưởng đến vận mệnh đất nước cần phải được minh bạch và công khai. Từ đó mỗi người dân cần có thái độ và đóng góp trách nhiệm của mình một cách rõ ràng trước những điều hệ trọng của đất nước. Nhân dân cần phải thay đổi thói quen chấp nhận để đời sống chính trị bị lệ thuộc bởi một cá nhân nào, một đảng phái nào, hay một thể chế nào, một chính phủ nào, mỗi người phải có quyền và nghĩa vụ tự quyết định cho riêng mình trong một xã hội văn minh, dân chủ.”

Hà Nội ngày 9 tháng 10 năm 2006.

Ông Hoàng Dũng cán bộ văn phòng Trung Ương Đảng xác nhận:

“Cụ Hồ có một ấn tượng và thiện cảm đặc biệt với những người phụ nữ Nam bộ. Biết thế nên Bộ chính trị đã chỉ đạo cho Trung ương cục miền Nam, mà lúc này Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung Ương Cục, phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một vài cô gái còn trẻ, đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong Bộ chính trị.”

Thêm một nhân chứng khác:

Gần đây GS. Lê Văn Lan, Chủ tịch Hội Khoa Học Lịch Sử miền Bắc, kỳ Đại Hội Đảng Cộng Sản VN X 2006 đã đòi ông Nông đức Mạnh, Tổng Bí Thư Ðảng Cộng Sản VN bạch hóa một số vấn đề bí ẩn về Hồ Chí Minh. GS. viết:

*

Ngày 10/9/2005 tôi đã nhận được giấy mời (kèm theo những dự thảo văn kiện) tham dự hội nghị đóng góp ý kiến cho những văn kiện lịch sử tại Đại Hội 10 của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Là người trực tiếp nghiên cứu đề tài Lịch Sử Cận Đại Việt Nam. Tôi xin phép được trình bày những ý kiến ngắn gọn và chủ chốt như sau:

1. Công bố toàn bộ bản di chúc gốc của Chủ Tịch Hồ Chí Minh trên các phương tiện thông tin đại chúng.

2. Công nhận chính thức anh Nguyễn Tất Trung hiện đang sống và làm việc tại Hà Nội là con trai duy nhất của Chủ Tịch Hồ Chí Minh khi người là chủ tịch nước (nhân chứng là gia đình ông Vũ Kỳ, thư ký riêng của Hồ Chủ Tịch trong những năm cuối đời).

3. Đề nghị đồng chí Nông Đức Mạnh trả lời rõ ràng trước báo chí thế giới và trong nước về vấn đề nghi vấn đồng chí Nông Đức Mạnh là con của Chủ Tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn không có cơ sở lịch sử cũng như sinh học (có thể kiểm chứng DNA).

4. Đề nghị làm rõ sự liên quan của Bộ Trưởng Bộ Nội Vụ Trần Quốc Hoàn trong vụ án hiếp dâm và tai nạn xe (còn rất nhiều bí ẩn) tại Hà Nội mà người bị nạn là bà Nông (Nguyễn) Thị Xuân người Nùng, thân mẫu của anh Nguyễn Tất Trung. Nhân chứng là:

- Ông Nguyễn Minh Cần – cựu Phó Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chính Thành Phố hà Nội.

- Ông Lê Giản – Bộ Trưởng Nội Vụ đầu tiên của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

- Ông Lê Quốc Thân hồi đó là Giám Đốc Sở Công An Hà Nội, về sau là Thứ Trưởng Bộ Công An.

- Ông Trần Danh Tuyên – cựu Bí Thư Thành Ủy kiêm Phó Chủ Tịch Ủy Ban Hành Chánh Thành Phố.

Tôi biết rằng những ý kiến đóng góp của tôi có thể gây sốc cho nhân dân. Nhưng khi Đảng đã tin mà hỏi thì chẳng có lẽ gì mà không đặt vấn đề một cách thật tâm. Với một người mang nợ viết, nghiên cứu lịch sử thì khổ tâm nhất là không được nói thật và lừa dối nhân dân lao động, tôi mong rằng bức thư này sẽ đến tay nhân dân bằng mọi hình thức trước khi mọi việc được công bố để giảm sốc. Nếu có thể đề nghị anh Nguyễn Như Phong đăng lên báo An Ninh Thế Giới, tuy không phải là một tờ báo về chuyên ngành lịch sử nhưng có số độc giả là người Việt cao nhất trong nước cũng như người Việt sinh sống và làm ăn ở nước ngoài.

Hà Nội ngày 10 tháng 12 năm 2005

Lê Văn Lan

Chủ Tịch Hội Khoa Học Lịch Sử Miền Bắc”

*

* *

Tài liệu phụ lục

Ai là mẹ của Nông Đức Mạnh?

Sau ngày cộng sản Liên Sô và Đông Âu sụp đổ, nhiều tài liệu và tin tức được phổ biến về sự thật con người Hồ Chí Minh(HCM), cũng như về cuộc đời riêng tư của người lãnh tụ Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Những người đàn bà của HCM và mẹ của Nông Đức Mạnh là ai?

Mối tình với cô gái người Nùng tên Nông Thị Xuân được bạch hoá rõ ràng nhất qua nhiều nhân chứng còn sống viết và kể lại. Tại Hà Nội, cô Xuân được lệnh ở nhà riêng số 66 Hàng Bông Nhuộm, nhưng vẫn phải đến “gặp” bác Hồ. Năm 1956, Nông Thị Xuân sinh cho HCM một người con trai đặt tên Nguyễn Tất Trung. Sau đó Xuân có ý muốn chính thức hoá cuộc hôn nhân với “Hồ Chủ Tịch”. Ngày 11 tháng 2, 1957, vào khoảng 7 giờ tối, Xuân được ô tô đón sang gặp HCM. Sáng hôm sau, ngày 12 tháng 2, 1957, công an báo tin cho cô Vàng (em cô Xuân) là Xuân đã chết vì tai nạn ô tô. Liền sau đó cô Vàng đến thăm xác chị ở nhà thương Phủ Doãn và chứng kiến biên bản khám nghiệm tử thi của bác sĩ. Bác sĩ cho biết nạn nhân không chết vì tai nạn ô tô, vì khám toàn cơ thể không có dấu hiệu gì cả ngoại trừ vết nứt trên sọ đầu, và bác sĩ đã tuyên bố, có thể nạn nhân bị trùm chăn trên đầu rồi bị đập bằng búa..

Cô Vàng vội chạy về báo tin ngay cho người chồng sắp cưới là một bộ đội đang bị thương tật sống ở tỉnh Cao Bằng. Vàng biết chắc rằng cô cũng sẽ bị thủ tiêu vì cô chứng kiến sự thật chị của cô do HCM âm mưu sát hại.Thật vậy, ngày 2 tháng 11, 1957, cô Vàng bị giết chết và xác được tìm thấy trên sông Bằng Giang, đến ngày 5 tháng 11 xác mới nổi lên ở cầu Hoàng Bồ.

Tin này được phổ biến rộng rãi hơn nhờ lá thư của anh bộ đội này đệ lên Nguyễn Hữu Thọ, chủ tịch Quốc Hội CHXHCN VN, vào ngày 29 tháng 7, 1983, trước khi anh qua đời sau cơn bạo bệnh. Trong lá thư anh bộ đội đã kể đầy đủ chi tiết những gì cô Vàng đã kể cho anh nghe, cả việc bộ trưởng Công An Trần Quốc Hoàn được HCM giao phó trông coi cô Xuân. Trong thư kể lại hình ảnh Trần Quốc Hoàn đã hãm hiếp cô Xuân rất tàn nhẫn trước đó một tuần khi được lệnh giết cô Xuân.. Hơn nữa, anh bộ đội còn cho rằng Nguyễn Tất Trung có thể bị thủ tiêu nếu bị tiết lộ tông tích. Do đó đến ngày hôm nay người ta chưa biết Nguyễn Tất Trung làm gì và ở đâu. Tuy nhiên, năm 2007, nhà văn đấu tranh trong nước, bà Trần Khải Thanh Thủy, đã tìm hiểu về tông tích của Trung và chính bà đã tìm gặp anh ta. Qua việc kể lại của Trần Khải Thanh Thủy người ta không ngần ngại gì nữa khi cho rằng Nguyễn Tất Trung chính là con của HCM. Được biết anh ta hiện đang được Đảng “nuôi” đàng hòang trong khu nhà sang trọng tại Hà Nội.

Toàn bộ lá thư của anh bộ đội được đăng trong cuốn “Công Lý Đòi Hỏi” của cựu đảng viên Nguyễn Minh Cần, xuất bản 1997. Ông hiện tỵ nạn chính trị tại Nga. Ngoài ra, câu chuyện cô Xuân này cũng được nhắc tới trong cuốn “Đêm Giữa Ban Ngày” của Vũ Thư Hiên, cũng một cựu đảng viên.

Nói chung về những người đàn bà trong đời HCM thì nhiều lắm. Người ta đã khám phá qua những tài liệu trong các văn khố bên Nga, bên Pháp, và các nơi. Sau hơn 20 năm sưu tầm nghiên cứu về con người HCM, ông William Duiker, mặc dù hâm mộ họ Hồ vì nghĩ rằng ông ta có lòng yêu nước (ông đã đọc những sách tuyên truyền của cộng sản?) cũng đã khám phá ra cái bản chất mưu mô của người cộng sản này, đồng thời tác giả còn đề cập đến những người phụ nữ đã đi qua trong đời Hồ.

Một cách vắn tắt, trước tiên phải nói đến Tăng Tuyết Minh, người vợ Hồ cưới đầu tiên tại Canton,Trung quốc. Hai người có đám cưới hẳn hoi. Không nắm rõ hai người làm đám cưới ngày tháng nào, nhưng vào tháng 4, 1927, Hồ bỏ Tuyết Minh đi hoạt động ở các khu vực khác theo chỉ thị của quốc tế cộng sản. Hơn nữa trong lúc này phe Tưởng Giới Thạch đang ruồng bắt các tổ chức cộng sản nên Hồ tìm đường tẩu thóat cũng là lý do đáng kể.

Sau đó thì phải nói tới mối tình được nhiều người bàn tán là giữa HCM và Nguyễn Thị Minh Khai vào đầu Xuân 1931. Theo Bùi Tín, một cựu đảng viên, lý lịch của Minh Khai được ghi trong tài liệu quốc tế cộng sản . Minh Khai ghi rõ ràng chồng là Lin (bí danh Nguyễn Ái Quốc tức HCM). Đã có lần ông Hồ đệ đơn lên cưới Minh Khai nhưng bị cấp trên Đảng Cộng Sản Quốc Tế bên Nga chưa cho phép. Minh Khai còn có bí danh là Trần Thị Lan, Phan Lan, nên sau khi HCM lấy bút hiệu T. Lan viết sách “Vừa Đi Đường Vừa Kể Chuyên...” tự ca ngợi mình thì người ta cho rằng có thể Hồ lấy bút hiệu đó để tưởng nhớ đến Minh Khai, người nữ cán bộ cộng sản trẻ tuổi đã bị Pháp xử tử.

Trong “Ho Chi Minh” tác giả William Duiker có ghi một phụ nữ trẻ khác tên Lý Sâm, lúc đó là vợ của Hồ Tùng Mậu, đồng chí của HCM. Lý Sâm và HCM đã bị cảnh sát Hongkong bắt tại một phòng hotel khi hai người đang trong phòng ngủ, lúc 2 giờ sáng ngày 6, tháng 6, 1931.

Sau khi bị tù tại Hongkong, Hồ có tên mới là Tống Văn Sơ. Sau khi rời khỏi HongKong HCM đổi nhiều tên họ khác nhau để tiếp tục hoạt động. Có những nguồn tin cho biết khi ông trở về lại Nga, đàn anh cũng đã tìm cho Hồ một người phụ nữ Nga để làm vợ...Trong cuốn “Con Rồng Việt Nam” tác giả cựu hòang Bảo Đại ghi “Hồ Chí Minh có một người vợ Nga và có chung một người con gái, nhưng ông ta không bao giờ nhắc đến” ( trang 205). Sở dĩ cựu hoàng Bảo Đại biết chuyện này nhờ những dịp đi “công tác” với Võ Nguyên Giáp vào 1945. Ông Giáp đã kể lại một số sự thật về HCM, lúc này Bảo Đại mới biết rõ HCM là tên quốc tế cộng sản nên tìm đường lưu vong.

Một trong những người phụ nữ Tây Phương có cô Marie Bière. Thành Tín tức Bùi Tín ghi trong “Về Ba Ông Thánh”, xuất bản 5/1995, (trang 149): “ Theo tài liệu Pháp, khi trẻ tuổi, làm thợ ảnh, ông Hồ có quan hệ với một cô đầm tên là Marie Biere nào đó..” Cũng theo Bùi Tín nói về tài liệu tham khảo của Sophia Judge, một nữ sử học gia Hoa Kỳ rành tiếng Việt đã bỏ nhiều năm nghiên cứu, sưu tầm tài liệu về ông Hồ, nhất là 2 năm tại Moscow... Ông Hồ có người tình tên Vera Vasilieva. Vera có con gái riêng, và cô này kể cho bà Sophia nghe. “Về Ba Ông Thánh”, (trang 151): “Vào dịp đại hội 7 của quốc tế cộng sản, cô ta mới 10 tuổi, nhưng còn nhớ ông Hồ thường ghé chơi nhà mẹ cô ta và một số lần ngủ lại trên ghế dài vào năm 1934...”

Theo tài liệu của bà Sophia Judge, Bùi Tín, cùng sách trên (trang 153): “Anh thanh niên Quốc ăn mặc rất chải chuốt , luôn mang cà vạt màu rất diện, xức cả nước hoa cực thơm. Ông còn để lại khi về nước một va-ly áo quần ông sắm cho vợ ông tòan là lọai sang, cô bé Nga này lấy ra dùng bao nhiêu năm mới hết!”

Ông Hồ cặp tay đi dạo với một cô gái Tây phương trong một hình được phổ biến rộng rãi ngoài đời và internet cũng không lấy làm lạ.(hình từ nguồn của Sở Mật Thám của Pháp). Lúc này ông Hồ đã khá già, có lẽ trên 70.

Đàn ông hay đàn bà thay chồng đổi vợ cũng là lẽ thường. Cái đám cưới chính thức với Tăng Tuyết Minh đã có nhiều tài liệu để lại, nhưng HCM và Đảng chưa bao giờ tuyên bố Hồ có vợ con, đừng nói chi bao mối tình khác diễn ra sau đó. Đàn ông độc thân dẫn bạn gái đi dạo là chuyện rất thường, hoặc nhiều vợ nhiều con có khi cũng được thế gian thông cảm. Nhưng khác thường là HCM đã tự tạo cho mình thành một huyền thoại khi vào năm 1948, chính HCM lấy bút hiệu Trần Dân Tiên viết “Những Mẩu Chuyện về Đời Hoạt Động của Hồ Chủ Tịch” tự ca ngợi mình, cho mình còn độc thân, cả đời chỉ biết lo cho dân cho nước.

Thêm nữa, trong sách “Năng Động Hồ Chí Minh,” tác giả Thép Mới cũng đã ghi (trang 143): “Bác giới thiệu với bản làng người nữ cán bộ hôm qua cùng về với Bác: -Đây đồng chí Lạc thay cháu Nông Thị Trưng về đây ở với đồng bào...”

Nông Thị Trưng là ai?

Đặc biệt hơn hết là môt phụ nữ cũng người sắc tộc thiểu số, Tầy, khá xinh đẹp tên Nông Thị Ngác (không ngạc nhiên vì vùng rừng núi Cao Bằng làm sao có gái Việt Nam chính thống). Lý do câu chuyện tình đặc sắc này được nổi bật những năm sau này là do cuộc phỏng vấn của tờ báo Xuân trong nước vào khoảng năm 1997. Nhà báo có phỏng vấn bà Nông Thị Ngác, một chứng nhân sống nói về “Bác Hồ”. Bà Ngác đã không dấu diếm chi cả những gì đã xảy ra trong thời gian HCM tại hang Pac Bo vào đầu thập niên 40. Bà kể hằng ngày Ngác đến “học tập” với HCM ròng rã cả năm. Hồ căn dặn Ngác không nên gọi Hồ bằng “Bác” mà hãy gọi là “Chú Thu” và xưng “Cháu”. Thế thì sau đó chú cháu tiê’p tục học tập...

Được biết sau thời gian rời Pac Bo, HCM cướp chính quyền thành công, trở thành người lãnh tụ chính thức của Đảng Cộng Sản Việt Nam, người nữ cán bộ gương mẫu mà Hồ yêu quý, tức Nông Thị Ngác, lại được cất chức làm Chánh Án Toà Án Nhân Dân tỉnh Cao Bằng.....Ông Hồ yêu quý Ngác đến độ đặt cho người nữ cán bộ này một tên nữa là Nông Thị Trưng, ý giống như Trưng Trắc, Trưng Nhị vậy. Tin Nông Thị Ngác là ai cũng đã được người dân trong nước bàn tán. “Chú Thu” và “Cháu Trưng” cũng đã được nhắc tới trong các sách tuyên truyền của cộng sản, nhất là các tác giả Trần Khuê, Thép Mới...

Thép Mới kể lại trong “Năng Động Hồ Chí Minh” (trang 48) rằng sau 20 năm ngày rời Pac Bo, ông HCM trở lại, 1961, lúc này coi như sự nghiệp khá thành công, ông có thời giờ về thăm lại người cũ, cảnh xưa. Khi vào nhà thăm gia đình bà Ngác, HCM tiếp xúc với ông Dương Đại Lâm, người mà trước đây HCM đã gởi gắm Ngác vào gia đình (không nhắc Ngác đang ở đâu), các cháu vây quanh HCM thân mật... Tác giả còn nhấn mạnh một trong các cháu đã trở thành “thanh niên tuấn tú” góp phần xây dựng đất nước.

Cùng sách trên, Thép Mới ghi (trang 43): “Bác trực tiếp hỏi chuyện, nghe kể về hoàn cảnh gia đình và bản làng đau khổ, rất thương, nhận làm cháu nuôi, đặt cho bí danh là Trưng, Nông Thị Trưng. Trưng ở với vợ chồng Đại Lâm, tên tục là Sù, hàng ngày được đến lán Bác một giờ để Bác chỉ bảo.”...Như vậy rất rõ, Nông Thị Ngác có bí danh là Nông Thị Trưng.

Vào tháng 4, 2001, Nông Đức Mạnh từ một người chưa thâm niên về chính trị lại được đưa lên làm Tổng Bí Thư Đảng. Tin cho rằng Nông Đức Mạnh là con của HCM lan rộng khắp nơi, từ trong nước ra đến hải ngoại. Khi có lời đồn này dĩ nhiên phải có sự bắt nguồn nào đó đi ra. Được tin này báo ngoại quốc Time đã làm cuộc phỏng vấn hỏi Nông Đức Mạnh có phải là con của HCM? Ông Mạnh không trả lời xác quyết là phải hay không, nhưng nói là tại Việt Nam ai cũng là con cháu của Bác Hồ. Câu trả lời sau chót “chắc chắn ông ta không phải cha ruột của tôi” cũng không đủ tin Nông Đức Mạnh nói bằng sự thật.

Từ câu trả lời trên và thái độ dấu diếm thân thế gia đình, cùng với vai trò lãnh đạo tối cao một cách đi ngang, quần chúng dường như ai nấy đều ngầm nghi vấn Mạnh có phải là con của HCM? Vậy thì làm sao biết Mẹ của Nông Đức Mạnh là bà nào? May mắn thay cho những ai muốn tìm hiểu Nông Đức Mạnh là ai, vì chưa bao giờ Đảng Cộng Sản Việt Nam hay Nông Đức Mạnh tiết lộ với báo chí hay bất cứ ai biết về tên họ cha mẹ của Mạnh một cách rõ ràng, qua tài liệu sau đây.

Trong “Ho Chi Minh”, tác giả William Duiker, trang 575, viết: “In April 2001, the ralatively unknown government official Nong Duc Manh, widely rumored to be the illegitimate son of Ho Chi Minh, was elected general secretary of the VCP (Vietnamese Communist Party)- 14”

Số 14 để người đọc lật ra sau cuốn sách đọc tiếp footnote 14: “Nong Duc Manh has denied these rumors, but he concedes that his mother, a member of the Tay ethnic minority, served as Ho’s servant after the latter’s return to Vietnam during the early 1940s...”

Dịch: Vào tháng 4, 2001, người vô danh tên Nông Đức Mạnh chính thức nhậm chức trong cơ quan chính quyền, dư luận xôn xao bàn tán rộng rãi cho rằng Mạnh là con trai rơi của Hồ Chí Minh, và ông ta đã được chọn làm Bí Thư Đảng Cộng Sản Việt Nam.

Nông Đức Mạnh phủ nhận những tin đồn này, nhưng ông ta lại công nhận rằng mẹ ông, một thành viên của dân tộc thiểu số Tầy, bà là người phục vụ ông Hồ sau khi ông Hồ trở về Việt Nam vào đầu thập niên 1940.

Nông Đức Mạnh sinh vào đầu thập niên 40. Báo Time phỏng vấn Mạnh vào 2002 và ghi ông ta được 61 tuổi. Như vậy thì ông Mạnh phải ra đời vào cuối 1941 hoặc 1942 . Sau ngày sách của Duiker xuất bản, 2000, và cuộc phỏng vấn của báo Time, trang web “Đảng CSVN” sửa tiểu sử Nông Đức Mạnh lung tung...Vào 2001, chính người viết có lần vào trang này thấy ghi rõ Nông Đức Mạnh con của “nhà cách mạng Nông Văn Lai và bà Hoàng Thị Nhị”, nhưng sau đó thì trống trơn không ghi gì cả . Biết đâu nhân vật Nông Văn Lai và Hoàng Thị Nhị này cũng giống như Lê Văn Tám mà Trần Huy Liệu đã nặn ra để lừa gạt mọi người trong nhiều thập niên qua? Hay Tạ Thị Kiều, một đặc công gái tưởng tượng, mà Xuân Vũ cũng một thời ca ngợi khi ông còn ở miền Bắc?

Rõ ràng câu trả lời của Nông Đức Mạnh trong sách của giáo sư Duiker và báo Time đã phần nào cho người đọc một kết luận về thân thế của ông ta. Mạnh đã trả lời mẹ là người Tầy, dân tộc thiểu số, phục vụ cho HCM trong thời gian Hồ trở về VN vào đầu thập niên 40.

Dư luận so sánh những câu chuyện kể của “Cháu Trưng” và “Chú Thu” khi Hồ ở hang Pac Bo cùng những tài liệu vừa trình bày trên để có những kết luận về cuộc đời tình ái của HCM và kẻ nối gót chính trị là ông Nông Đức Manh. HCM đã từng bị dân gian nêu danh là “bán nước hại dận”. Nay kẻ thừa kế tiếp tục con đường Hồ đã đi qua, tiếp tục làm tay sai cho đàn anh Tàu cộng, bán rẻ linh hồn cho quỷ đỏ, dâng đất nhượng biển, rước hàng chục ngàn dân Tàu cộng vào chiếm cứ miền Bắc và Trung hiện nay...

Bút Sử

Mùa Quốc Hận 30/4/2009

34 năm CS cưỡng chiếm miền Nam

------------ --------- -------

AI LÀ MẸ CỦA NÔNG ĐỨC MẠNH ?

» Tác giả: Nhàn SF

1. AI LÀ MẸ CỦA NÔNG ĐỨC MẠNH ?

Khi Nông Đức Mạnh(NĐM) được chọn làm Tổng Bí Thư Ban Chấp hành Trung Ương Đảng CSVN, nhiều lời bàn tán nổi lên nhưng chỉ qui vào thân thế hơn là sự nghiệp của ông ta. Theo đài Á Châu Tự Do (RFA) thì tại một nước mà tự do báo chí không có để tìm kiếm sự thật thì những lời xì xầm đồn đại lan truyền trong dân chúng lâu dần sẽ đương nhiên trở thành được coi như có giá trị. Do đó khi viết về đại hội đại biểu toàn quốc 4/2001 báo chí ngoại quốc đều nhắc đến những lời đồn đãi rằng NĐM là con rơi của Hồ Chí Minh (HCM) cha đẻ của cuộc cách mạng vô sản ở VN. Đại Sứ Australia là bà Sue Boyd - người nổi tiếng là bộc trực- đã hỏi thẳng NĐM có phải là con của Hồ Chí Minh không? NĐM trả lời “Ở Việt Nam ai cũng đều là con của Bác”. Câu trả lời vô thưởng vô phạt này có chủ đích lập lờ để không phải xác nhận sự thật mà cũng không bị mang tiếng là chối bỏ một sự thật.

Sau đó cũng gần một năm trên tạp chí Time, ấn bản vùng Á Châu phát hành ngày 23-1-2002 tại Hồng Kông- qua cuộc phỏng vấn của ký giả Kay Johnson- Tổng Bí Thư (TBT) Đảng CSVN lại một lần nữa lên tiếng về thân thế mình, bác bỏ tin đồn trước đây cho rằng ông ta là con rơi của HCM và một phụ nữ sắc tộc là Nông Thị Xuân. Ngày được nâng lên giữ chức TBT, vì quá bất ngờ với câu hỏi của bà Sue Boyd nên câu trả lời của NDM tuy khôn ngoan nhưng ai cũng hiểu đó là một sự tránh né. Có lẽ nhận thấy im lặng quá lâu là mặc nhiên xác nhận tin đồn không tốt cho sự nghiệp chính trị của mình, là “con Vua thì được làm Vua”, lần này vì có chuẩn bị trước nên NĐM đã bác bỏ tin đồn một cách mạnh mẽ “Tôi phải lập lại và xác nhận rằng điều đó không đúng sự thật. Tôi có thể nói tên của cha mẹ tôi nhưng họ đã chết” Và NDM cho biết cha mình là Nông Văn Lai và mẹ là Hoàng Thị Nhị. Tổng Bí Thư Dảng CSVN tiếp theo cười cười :

“Nếu có ai nói tôi giống HCM, tôi nghĩ có nhiều người trông giống người “

Người phỏng vấn hình như vẫn chưa hài lòng với câu trả lời nên lại hỏi : “Nên ông không liên hệ gì với HCM ?”

NĐM lập lại : “Tất cả mọi người VN là con của Bác Hồ. Tôi nghĩ toàn thể dân Việt xem HCM là cha tinh thần của họ và tôi cũng thế “.

Nghe đến đây phóng viên tờ Time nhấn mạnh một lần nữa : “Nhưng không phải là cha đẻ của ông?.”

NĐM quả quyết : “Chắc chắn là không “.

Viết về HCM thì không thể nào không nhắc đến những huyền thoại không những do đảng CSVN tô son điểm phấn cho ông mà ngay chính bản thân ông cũng tự hào về những dối trá đó. Hình như những suy tôn mà Đảng CS đã dành cho ông vẫn chưa đủ nên chính ông lại tự ca ngợi mình. Quả thật không ai ca ngợi HCM bằng chính ông ta. Trong các tài liệu về HCM cho biết “Bác” Hồ đã có tất cả vừa tên, vừa bí danh và bút danh từ A đến Z sơ khởi là 54 cái tên (VN Đẹp Nhất Có Tên Bác Hồ- trang 114- 122) nhưng lại bỏ sót mất 2 cái tên là Trần Dân Tiên và T. Lan là tác giả của 2 cuốn sách nâng HCM lên như một ông “Thánh sống” đến độ trơ trẽn vì từ trước đến nay có lẽ chỉ mình Bác là kẻ duy nhất tự viết sách để ca tụng mình qua vai trò Trần Dân Tiên và T.Lan, tự khen mình là khiêm tốn, không bao giờ nghĩ đến mình mà chỉ nghĩ đến nhân dân, phong cho mình là “cha già dân tộc”, ngạo mạn với các bậc tiền bối, xưng hô là “Bác” với mọi ngườì kể cả các cụ già. Một con người mà có thể hạ bút viết lên những điều như thế thì tất cả những huyền thoại về HCM đều là do ý muốn của ông ta.

Trong những lần dạy dỗ cán bộ đảng viên, HCM thường nhắc đến hai chữ “hủ hoá”, nhưng kỳ thực ông ta lại là người lăng nhăng tình cảm với nhiều phụ nữ hơn ai hết. Những tham khảo của các sử gia ngoại quốc cũng như tài liệu từ các quốc gia Pháp Nga cho thấy rõ điều này. Bùi Tín (BT) cho rằng “HCM cũng rất “người” ở chỗ không thể nào sống như một ông Thánh.” ( Hoa Xuyên Tuyết trang 112) Với Bùi Tín thì những chuyện “lăng nhăng” với phụ nữ “là chuyện riêng tư của cá nhân, không mấy quan trọng mà nó còn thấy HCM cũng là con người như mọi người”.

Đồng ý, con người sinh ra đều có tình cảm: yêu thương, giận hờn, ghen ghét trong đó tình yêu vợ chồng là tình cảm thiêng liêng không thể thiếu được. Thế nhưng HCM đã dấu hết tình cảm đó, cho mình là một “ông Thánh” hy sinh cả cuộc đời , sống cô độc lo cho dân cho nước. Thậm chí ăn ở với người ta có con, rồi ra lệnh giết người mẹ chỉ vì không muốn nhìn nhận vợ con. Nếu không có lệnh của HCM thì ai dám nhúng tay vào tội ác?. Thế mà HCM lúc nào cũng hãnh diện nhắc nhở cho thanh thiếu niên là “Học gì thì học chứ đừng học tánh hút thuốc và không lấy vợ của Bác nhé!”. Do đó nói lên sự thật không có nghĩa là moi móc đời tư mà là đánh đổ huyền thoại của một con người hai mặt nói thì tốt nhưng hành động thì xấu xa. Mồm thì hô hào là “đầy tớ “ của nhân dân nhưng lại mơ thấy mình làm vua là “cha” của thiên hạ :

Trong tù khoan khoái giấc ban trưa

Một giấc miên man liền mấy giờ

Mơ thấy cưỡi rồng trên thượng giới

Tỉnh ra trong ngục vẫn nằm trơ

(Nhật Ký Trong Tù-1943)

Danh sách những phụ nữ có dính dáng đến cuộc đời của HCM thì nhiều, Pháp Nga Tàu Việt không thiếu. Quả thật “Bác là con người của nhân loại” “ trong lãnh vực “giao du tình cảm” cũng như trong lãnh vực “thuổng văn” mà Chế Lan Viên đã hết lòng biện hộ cho “Bác” về chuyện sao y câu của bản tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ. Nhân ngày sinh nhật thứ 114 của HCM chúng ta hãy hỏi tội “hủ hoá” của “Bác” với câu hỏi đặt ra là: - AI LÀ MẸ CỦA NÔNG ĐỨC MẠNH ?

Tiếng Việt của chúng ta thật là phong phú, đa dạng. Khi viết “Mẹ của NĐM là ai?” thì câu hỏi này không có gì đặc biệt - và câu trả lời là mẹ ông ta có thể là bà A, bà B, bà Mít , bà Xoài v. v... Nhưng khi chúng ta đặt chữ Ai ở đầu câu Ai là Mẹ của NĐM ? thì câu hỏi xem ra có phần mạnh mẽ hơn, hậu ý như là giữa những bà có tên là Marie Biere (Pháp), Tăng Tuyết Minh (Tàu), Vera Vasiliéva (Nga), Nguyễn Thị Minh Khai, Đỗ Thị Lạc, Nông Thị Xuân . . ai trong số đó là Mẹ của NĐM? Dư luận cho rằng người đó là Nông Thị Xuân có lẽ vì bà Xuân cùng là họ Nông và lại cũng sinh cho HCM một đứa con trai. Tuy nhiên nếu xét về thời gian thì giả thuyết này không chấp nhận được. Câu chuyện Nông Thị Xuân đã được ông Nguyễn Minh Cần - đảng viên CS ly khai viết rất rõ ràng. Sau hiệp định Geneve 1954 HCM về Hà Nội làm Chủ Tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Năm 1955 Nông Thị Xuân 22 tuổi người Cao Bằng được đưa về Hà Nội để “phục vụ” HCM. Lúc đó “Bác” đã 65 tuổi rồi. Một năm sau, hạ sanh một con trai đặt tên là Nguyễn Tất Trung, cô Xuân ngỏ ý với “Bác” xin được hợp thức hoá hôn nhân để dọn về ở chung. “Bác” gật gù khen “ý kiến hợp tình hợp lý nhưng phải bàn với Bộ Chính Trị” đã. Sau đó cô Xuân bị giết, cả hai người em là cô Vàng và cô Nguyệt đến ở chung để trông cháu cho cô Xuân rảnh rang đi “phục vụ” “Bác”, cùng với bạn của cô Vàng là những người biết chuyện, đều lần lượt bị giết lây. Có tin sau khi câu chuyện này được tung ra hải ngoại thì mộ cô Xuân đã bị san bằng không còn dấu tích.

Nông Đức Mạnh, theo tài liệu của Đảng, thì sinh năm 1940, còn Nguyễn Tất Trung con cô Nông Thị Xuân thì sinh năm 1956, sự sai biệt quá cao dù rằng tên tuổi của người CS đôi khi không mấy đúng với lý lịch thật. Do đó nếu Nông Đức Mạnh là con HCM thì mẹ ông ta phải là người liên hệ với HCM vào khoảng thời gian HCM về nước ở Cao Bằng.

Theo tài liệu CS, thì HCM về nước vào ngày 8-2-1941 qua cột mốc 108 biên giới Việt Trung, đến ở tại hang Pắc Bó tỉnh Cao Bằng.Chung quanh hang có một con suối và một ngọn núi. Vừa đặt chân đến nơi HCM nghĩ ngay đến việc đặt tên là núi Karl Marx và suối Lenin. Trong hang, kế vách là một tháp đá thiên nhiên cao hơn đầu người đã được HCM vài ngày sau đó tạc thành tượng Karl Marx. Cũng tại nơi đây HCM đã dịch “Lịch Sử Đảng CS Liên Sô” ra tiếng Việt. Coi các lãnh tụ Liên sô là trên hết, HCM đã khóc lóc thảm thiết khi nghe tin Stalin chết. Cho nên bảo rằng HCM bị Stalin áp dụng kỷ luật vì “không biểu lộ tinh thần giai cấp và đặc tính thích đáng của tầng lớp vô sản quốc tế “ mà Bùi Tín đã trích dẫn từ tài liệu của Mạc Tư Khoa qua bài viết đăng trên tờ Time cuối tháng 8-1999 (Hà Nhân VN Nhật Báo 28-8-1999) thì quả thật là oan cho “Bác” quá đi mất thôi!

Địa thế hang Pắc Bó lại thông ra một con đường kín đáo dẫn sang bên kia biên giới..Cũng tại nơi đây HCM lại có một mối tình mà ít ai để ý đến và ngay những taì liệu trước đây cũng không hề nhắc đến. Nhân chuyện CSVN dâng đất nhường biển cho Trung cộng, các anh chị em trong nhóm “Câu Lạc Bộ Sinh Viên Việt Nam” ngày 24-2-2002 đã viết một bài có tựa đề “Cột Mốc 108 và Một Câu Chuyện Tình” ( Trong Bạch Thư tố cáo Việt cộng hiến đất dâng biển cho Trung Cộng trang 348,349). Mục đích của bài viết muốn nhấn mạnh cột mốc 108 biên giớI Việt Trung để chúng ta có dịp do sánh địa điểm này giữa hai thời điểm 1941 và 1999. Thế nhưng, Cột mốc biên giới đánh số 108 này cũng đã ghi lại dấu vết đầu tiên của HCM khi trở về nước và đã có một cuộc tình với cô gái Nùng họ Nông .

“Vào năm 1941 Nông Thị Ngát - còn có biệt danh là Nông Thị Trưng (tên do “Bác” Hồ đặt cho) là một cô gái tuổi đôi mươi người Tày rất đẹp có duyên nhưng lại mù chữ. Vốn trực thuộc cơ quan chi bộ phái của Trung Hoa Cộng sản Đảng tuyển chọn và huấn luyện để làm giao liên cho HCM, Nông Thị Trưng liên tục được HCM huấn luyện, bồi dưỡng, xoá dần mù chữ và một chuyện tình có thể xảy ra vào những năm tháng này”

Trên tờ Xuân Phụ Nữ năm Đinh Sửu 1997 xuất bản trong nước một bài viết có tựa đề “Cô Học Trò Nhỏ Của Bác Hồ” được tác giả Thiên Lý viết theo lời kể của chính đương sự Nông Thị Trưng đã cho thấy có sự gắn bó rất thắm thiết giữa người con gái Nùng tuổi đôi mươi với người đàn ông 51 tuổi trong cái hang Pác Bó gần cột mốc 108 này. Sau đây là nguyên văn bài viết:

“Tháng 7 năm 1941, được tin Châu Hà Quảng đưa lính cơ tới bắt, ngay đêm ấy tôi trốn ra rừng, rồi được Châu Ủy đem qua Bình Mãng (Trung Quốc) lánh nạn tại nhà một đảng viên đảng Cộng sản Trung Quốc. Một hôm đồng chí Lê Quảng Ba và Vũ Anh đến đón tôi từ Trung Quốc về Pắc Bó gặp Bác.. Về Pắc Bó đã nửa đêm, anh Đại Lâm người giữ trạm đầu nguồn đưa ngay chúng tôi đi gặp “ông Ké”.

Lội ngược suối càng đi nước càng sâu, khi đến thác thứ ba, anh Đại Lâm thổi sáo, từ trên thác có thang tre thả xuống. Trèo thang lên, thấy một cái lán dựng ngay trên bờ suối. Trong lán có ông cụ ngồi đọc sách. Tôi chắp tay “Cháu chào cụ ạ” ông cụ nhìn lên hai mắt rất sáng, ân cần bảo: “Cháu đến rồi à, cháu ngồi xuống đây nói chuyện.” Tôi nhìn xuống sàn, thấy toàn cây to bằng bắp chân. Cụ bảo hai lần tôi mới dám ngồi. Cụ tỉ mỉ hỏi gia cảnh, rồi khuyên tôi: “Từ nay cháu đã có một gia đình lớn là gia đình cách mạng, đừng luyến tiếc gia đình nhỏ nữa. Cháu cặm cụi làm ăn cũng không đủ để nộp sưu thuế đâu. Mình lấy lại được nước rồi từng gia đình sẽ được đàng hoàng. Từ nay ai hỏi thì cháu nói mình là cháu chú Thu, tên Trưng”. Bác đặt tên ấy là muốn tôi noi theo gương bà Trưng..

Từ đấy tôi ở lại lán anh Đại Lâm, mỗi ngày vào lán của Bác một giờ để học tập. Bác dạy cho tôi từ chuyện thế giới, chuyện cộng sản chủ nghĩa đến cả những cách ứng xử thường ngày như “Đừng làm một việc gì có thể khiến dân mất lòng tin. Mượn một cái kim, một con dao, một buổi là phải đem trả. Trong ba lô nếu có màn, phải để ở ngoài cửa, hỏi xem chủ nhà có bằng lòng mới đem vào. Cháu là nữ, trước bàn thờ có cái giường để các cụ ngồi ăn cỗ, cháu không được ngồi”. Tám tháng được Bác chỉ dạy tôi học được hơn cả mấy chục năm học lý luận tập trung sau này. Bà Nông Thị Trưng ngừng kể để uống nước. Tôi để ý thấy ngôi nhà yên vắng lạ, không có dấu hiệu một người thứ hai ngoài chủ nhân sống ở đây. Đồ vật trong nhà chỉ có chiếc giường, bộ bàn ghế gỗ thường, chiếc xe đạp nam và cái ti vi đen trắng cũ kỹ.

Nhân đang vui chuyện, tôi hỏi về gia đình bà, chồng bà là một cán bộ Việt Minh cùng hoạt động những năm ba mươi, đã mất năm 1986. Được bốn con trai một gái, nay đều ở riêng. Bà sống đơn chiếc, tự “phục vụ” hoàn toàn . Người phụ nữ giàu nghị lực ấy đã trải qua nhiều thời kỳ gian khổ trong kháng chiến, vừa hoạt động, vừa nuôi con. Thậm chí, có lúc quá khó khăn đã phải ngưng công tác. Và cũng chính bác Hồ đưa người nữ cán bộ miền núi ấy trở lại với công tác.

Trong dịp Quốc Hội đầu tiên, sau hoà bình, Bác mời các đại biểu Cao Bằng tới ăn cơm, thăm hỏi mọi cán bộ cơ sở cũ, và không quên cô học trò nhỏ ở Pắc Bó. “Trưng bây giờ làm gì ở đâu?”. Khi nghe trả lời: “Thưa Bác, chị Trưng nghỉ ở nhà”, Bác đổi sắc mặt, trách “Tại sao trước cách mạng khó khăn thế, nó vẫn hoạt động mà bây giờ lại nghỉ, các chú phải tìm hiểu rõ chứ”. Về sau, mỗi khi có dịp, Bác đều cử người gặp trực tiếp bà Trưng hỏi xem bà có gặp khó khăn gì để giúp đỡ.

Bác còn có cả một bài thơ tặng người học trò nhỏ của mình. Bà Trưng kể: “Hồi ấy giữa năm 1943 Bác mới ra khỏi nhà tù Trưởng Giới Thạch, trở về Lũng Cát ở trong một cái lán dưới chân núi. Một hôm Bác cho gọi tôi đến đưa cho một quyển vở và bảo rằng “Bác vừa dịch xong quyển Binh Pháp Tôn Tử, Bác cho cháu”. Tôi giở ra, thấy ở bìa trong có bốn câu thơ viết bằng mực tàu:

“Vở này ta tặng cháu yêu ta

Tỏ chút lòng yêu cháu gọi là

Mong cháu ra công mà học tập

Mai sau cháu giúp nước non nhà.”

Tiếc thay , trong những năm kháng chiến, không có điều kiện bảo quản, quyển vở quí ấy đã bị mối xông mất .”

------------ -

Bài viết chấm dứt nơi đây.

Vừa gặp nhau lần đầu , người con gái Nùng chấp tay “Cháu chào cụ ạ”. Có lẽ tiếng “cụ” nghe không “êm ái” nên HCM dặn dò “Từ nay ai hỏi, thì cháu nói mình là cháu chú Thu, tên Trưng”. Và bí danh “Già Thu” và “Nông Thị Trưng “ được khai sinh ra từ đó. Từ trước đến nay ông Hồ vẫn xưng mình là Bác với tất cả mọi người, riêng đặc biệt chỉ có mỗi một mình Nông thị Ngát là được làm “cháu” của “Chú Thu” mà thôi

Qua lời kể trên đây thì tình cảm của “Chú Thu” dành cho “cháu Trưng” rất đậm đà thắm thiết “Mỗi ngày một giờ liên tục như thế gần một năm trời từ tháng 9-1941 cho đến 13-8-1942 thì lớp dạy kèm chấm dứt, “Chú Thu” qua Trung Quốc, bị bắt ., ra tù trở về lại Cao Bằng, tìm lại cô học trò xưa tặng nàng một bài thơ viết vài giòng trên quyển “binh thư” và kể từ đó tuy xa nhau nhưng “Chú Thu” vẫn theo dõi tận tình giúp đỡ cho “cô học trò nhỏ” của mình.

Tin từ nhóm “Câu Lạc Bộ Sinh Viên” cho biết thì “Kể từ đó Nông Thị Ngát đã vắng mặt khá lâu tại vùng biên giới này, mười năm sau Nông Thị Ngát bỗng nhiên được ưu đãi đặc biệt trở thành chánh án toà án nhân dân tỉnh Cao Bằng. Người ta đặt câu hỏi việc gì đã xảy ra trong những năm tháng đó, Nông đã đóng góp gì mà chỉ sau mười năm trở thành tỉnh uỷ viên, uỷ viên ban chấp hành trung ương và là người đứng đầu ngành hành pháp tại một tỉnh xung yếu phía Bắc?

Như đã biết, tại Viêt Nam không có tự do báo chí, tất cả nằm trong tay Đảng. Nhà baó Kim Hạnh tổng biên tập của báo Tuổi Trẻ đã bị mất chức chỉ vì đăng tin HCM khi còn trẻ đã có một người vợ kèm theo đăng lá thư HCM gửi cho người vợ này. Vì sự thật đã không được phơi bày cho nên người dân chỉ còn biết đặt nghi vấn, tại sao Nông Thị Trưng lại được ưu đãi như thế? Tại sao tiểu sử Nông Đức Mạnh chỉ ghi: “Con một nhà cách mạng lão thành?” còn cô học trò nhỏ của ‘’Bác” thì chỉ hé mở chồng mình là “một cán bộ Việt minh cùng hoạt động những năm ba mươi” ?. Tại sao lại phải dấu tên tuổi như vậy?.

Gần đây hơn, đáng tin cậy nhất là William Duiker đã tường thuật lại, trong cuốn sách viết về Hồ Chí Minh (tái bản lần thứ hai) chuyện Nông Đức Mạnh đã tiết lộ với tác giả rằng “ MẸ TÔI, THÀNH VIÊN CỦA DÂN TỘC THIỂU SỐ, ĐÃ PHỤC DỊCH CHO ÔNG HỒ VÀO NHỮNG NĂM ĐẦU TIÊN CỦA THẬP NIÊN 40…”

Một con người vốn bản tính lăng nhăng, thời gian ở ngoại quốc đã có tiếng là “anh thanh niên Quốc ăn mặc rất chải chuốt, luôn mang cà vạt màu, rất diện, xức cả nước hoa cực thơm..”(Hồ Chí Minh có mấy vợ- Trần Gia Phụng) mà nay lại đứng trước cảnh tượng “nửa đêm, giờ tý, canh ba” trong một nhà sàn thanh vắng ông “ké” nhìn lên, hai mắt sáng, ân cần bảo: “Cháu đến rồi à, cháu ngồi xuống đây nói chuyện” thì liệu “ông Ké” có làm ngơ được không nhất là khi nhan sắc của “cháu” Nông Thị Ngát lại mặn mà duyên dáng dễ làm say đắm lòng người !

Xem như thế thì câu chuyện Nông Thị Ngát là một nghi vấn có nhiều khả năng xác thật để trả lời cho câu hỏi : AI LÀ MẸ CỦA NÔNG ĐỨC MẠNH vậy.

Bí mật chuyện thâm cung bí sử triều đình đỏ Hà Nội

- “Đời tôi cống hiến cho đảng (chớ không phải cho tổ quốc), đảng lại tiếc với một người đàn bà hay sao” (Lê Đức Anh tuyên bố lúc cưới vợ bé tại Hà Nội).

- Rút kinh nghiệm từ vụ Thiên An Môn, VC lập ra hai tiểu đoàn người Nùng rất thiện chiến để phòng bị. Hiện nay, chúng đang đóng các con ngựa gỗ (chướng ngại để dẹp các đám biểu tình), tập luyện đàn áp biểu tình. Đưa Nông Đức Mạnh lên làm chủ tịch quốc hội bù nhìn (dân Nùng) để lợi dụng người Nùng. Khi có biến, chính Nông Đức Mạnh ra lịnh cho các tiểu đoàn người Nùng này sẵn sàng bắn giết người Việt không chút nương tay...

- Sau khi cướp chính quyền vào năm 1945, ông Hồ tha chết cho Vi Văn Định (người Nùng), Tổng đốc Thái Bình, rồi Hà Đông, một tay thực dân khét tiếng, để mua chuộc dân Nùng. Ông Hồ và đảng CS biết rằng kháng chiến còn dài, và tập đoàn của ông còn lẩn trốn trong chiến khu Việt Bắc, giang sơn của người Nùng để tìm chỗ an toàn. Lúc đó, ông Hồ sử dụng một toán người Nùng làm cận vệ (gọi là bảo vệ) gồm những người: Phùng Thế Tài, Võ Chương, Đinh Đại Toàn, Chu Phương Vương, Hoàng Văn Lộc Thế An, Đặng Văn Cáp Hoàng Sâm... dưới quyền chỉ huy của Lê Quảng Ba, vì ông Hồ không tin người Việt.

---oOo---

Không những đồng bào hải ngoại, nhiều đồng bào trong nước, cho tới bây giờ vẫn còn rất nhiều người chưa hiểu tâm địa và mặt mũi của người CS. Những ai chưa từng sống với CS ngày nào, lại càng dễ sai lầm khi nhận xét về họ. Nhìn cách tổ chức chính quyền, nhiều người tưởng lầm rằng các nhân vật giữ những chức vụ quan trọng trong chính phủ phải là những người có tài, có đức, có khả năng và quyền hành như các nước tự do khác. Nghĩ như vậy là chưa hiểu gì về CS. Trong chế độ độc tài đảng trị, nguyên tắc “Bảo vệ quyền lực (và quyền lợi) của đảng” mà mỗi đoàn viên khi gia nhập phải long trọng tuyên thệ:

- Tuyệt đối trung thành với đảng CS (thay vì với tổ quốc!). Lời thề đó là một thứ kỷ luật sắt, một nguyên tắc bất biến, bất di bất dịch, là một bản án tử hình dành sẵn cho bất cứ đảng viên nào có hành động làm trái lời thề đó. Hiểu rõ nguyên tắc ấy, bây giờ chúng ta mới xét những trường hợp cá biệt để chứng minh. Trước hết là việc đưa ông Nông Đức Mạnh, một người Nùng lên ghế chủ tịch quốc hội, để thấy rõ hơn về chủ trương “bảo vệ quyền lực của đảng CS”. Trong hiến pháp VC có ghi: “Quốc Hội là cơ quan quyền lực cao nhất”, nhưng tất cả đại biểu đều là đảng viên, mà “đảng viên phải trung thành với mọi mệnh lệnh của đảng”, vậy cuối cùng quốc hội cũng chỉ là “công cụ của đảng CS mà thôi!”.

Lời tuyên bố “Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất nước” chỉ là một khẩu hiệu để mị dân. Đảng viên đang giữ chức đại biểu quốc hội, “làm trái lệnh đảng, chỉ còn con đường tự sát”, hoặc bị số phận trù dập, kéo lê cuộc sống vài ba mươi năm trong các nhà tù, mệnh danh “trại cải tạo” khi được thả ra... chỉ còn đủ sức... chờ chết!

Đó là trường hợp các ông Vũ Đình Huỳnh, Vụ trưởng Vụ Lễ tân, từng theo sát ông Hồ nhiều năm, ông Hoàng Minh Chính, viện trưởng viện Triết học Hà Nội, thiếu tướng Đặng Kim Giang, phó chủ nhiệm Tổng cục Hậu cần, Dương Bạch Mai, phó chủ tịch quốc hội....

Bề mặt, chúng ra sức tô vẽ cho chế độ nào là “đoàn kết, liên hợp, hòa hợp hòa giải, xóa bỏ hận thù”, nhưng bên trong, chúng thi hành những thủ đoạn trái ngược một cách dã man. Nhớ lại vài trường hợp trong lịch sử cận đại, lúc còn trong rừng núi Thái Nguyên, ông Hồ lập chính phủ tự phong ngày 24/8/45. Báo Cứu Quốc, cơ quan tuyên truyền của tổng bộ Việt Minh loan báo “Chính Phủ Nhân Dân Lâm Thời thành lập, trong đó có Chu Văn Tấn làm bộ trưởng quốc phòng... “Chu Văn Tấn có tài và khả năng ra sao mà được ông Hồ cất nhắc làm bộ trưởng quốc phòng ? Chẳng qua Tấn chỉ là một tên du kích theo ông Hồ từ ngày chui rúc trong hang Pác Bó, và có mặt trong cuộc nổi dậy vài chục tên lèo tèo mà chúng gọi là “Khởi nghĩa Vũ Nhai” (Thái Nguyên).

Thật ra, Tấn “bị làm bộ trưởng” chỉ vì hắn là người Nùng, một sắc dân thiểu số ở “chiến khu Việt Bắc”. Là người lắm mưu gian mẹo vặt, khi đặt Tấn vào chức vụ bộ trưởng quốc phòng, ông Hồ và trung ương đảng có mục đích riêng tư. Khi nhiều người thân cận nêu thắc mắc về việc này “bộ hết người Việt tài giỏi rồi hay sao lại chọn một “thằng Mán” lên làm bộ trưởng quốc phòng”. Ông Hồ nói:

- Cái đó có lợi cho cách mạng! Khi tuyên bố cuộc kháng chiến trường kỳ, ông Hồ nhắm vào chiến khu Việt Bắc, rừng núi trùng trùng điệp điệp để ông và trung ương đảng chui rúc, lẩn trốn. Tại đây, ông Hồ sẽ nhờ họ cung cấp nhân lực, vật lực, tài lực, cung cấp lương thực, giúp đỡ, che giấu... để đảng tồn tạị Ông Hồ chọn vùng núi rừng thuộc các tỉnh từ Tuyên Quang, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Hà Giang, Cao Bằng... làm chiến khu Việt Bắc. Những ngày mới cướp chính quyền, ông Hồ dùng hai chữ “Độc lập” như mật ngọt rót vào tai đồng bàọ Biểu ngữ căng khắp thành phố “Độc lập hay chết”, “nhất định hy sinh tất cả vì Độc lập”. Mọi người hân hoan, hăng hái “như muốn chết ngay cho đất nước”...

Nhưng khi Pháp tấn công, tự vệ chiến đấu rút lui trước. Còn trung ương đảng và chính phủ cao chạy xa bay từ mấy hôm trước, để lại bọn thanh niên “tự vệ thành” từ nhỏ tới lớn chỉ biết o mèo, đầu chải láng, quần áo thẳng nếp... ở lại anh dũng đưa mình ra hứng đạn! Không phải tự nhiên ông Hồ lợi dụng người Nùng, người Thổ được!

Nguyên từ tháng 2/1942, ông Hồ cùng nhóm CS trở về nước hoạt động trong hang Pác Bó, lúc đó ông chưa có tiếng tăm gì. Bọn người Nùng, Thổ coi nhóm của ông Hồ chẳng qua như “thổ phỉ”. Xưa nay, vương quốc người Nùng độc lập.

Họ cai trị theo truyền thống cha truyền con nối, coi quan châu như một lãnh chúa. Hàng ngày, nhóm thủ túc ông Hồ đi rừng hái bắp, đào khoai trộm, săn thú rừng của họ... bị họ phản đối dữ dộị Khi quyền lợi vật chất bị va chạm, người Nùng phản ứng mãnh liệt. Những cuộc chạm trán, đụng độ xẩy ra luôn. Thấy nhiều người Kinh xuất hiện trên lãnh thổ mình với thái độ khả nghi, các Thầy Mo Nùng rỉ tai dân chúng:

- Thằng Kinh nó xui người Thổ đi lính chết cho chúng nó!

- Nó lấy con bò, con trâu, vào nương bẻ trộm bắp, đào trộm khoai của chúng ta... Trước thái độ thù nghịch ấy, ông Hồ tìm cách mua chuộc họ để được an toàn tánh mạng. Ông tìm cách hòa giải mối thù, và lôi kéo họ về với đảng của ông. Trước tiên, ông tự xưng “Ké Hồ” (tiếng Thổ là chú hay bác) và chọn Chu Văn Tấn, con quan Châu người Nùng gốc Cao Bằng, làm bộ trưởng quốc phòng.

Từ đó, người Nùng đổi thái độ, từ thù hận ra hợp tác, ra công phục vụ cho đảng ông Hồ. Lựa trong số những người Nùng, Thổ nhanh nhẹn, thông minh, ông Hồ đào tạo thành đảng viên CS như Chu Phương Vương phong làm huyện ủy châu Chiêm Hóa, Lê Quảng Ba làm trung đội trưởng.... Vốn thật thà, lại được tuyên truyền nhồi sọ rằng “khi cách mạng thành công, đời sống người Nùng, Thổ sẽ được ấm no, sung sướng. Thật ra, họ không biết gì về mấy chữ “Độc lập, Tự do” như người Kinh ở đồng bằng..

Sau khi về thủ đô Hà Nội và ra mắt chính phủ tự phong vào ngày 2/9/1945, ông Hồ vẫn sử dụng những người thiểu số làm kẻ bảo vệ cho mình. Lúc đó kề cận ông có Đàm Quang Trung, Đàm Minh Viễn. Về sau, năm 1954, Nguyễn Lương Bằng tổ chức một trung đội bảo vệ gọi là “Trung đội 41” gồm 8 người thân tín, trong đó 2/3 là dân Nùng, Thổ. Có người lại kể rằng, 8 nhân vật này được ông Hồ đặt tên mới, bắt đầu bằng 8 chữ “Trường Kỳ Kháng Chiến Nhất Định Thắng Lợi”. Các người đó là:

- Võ Chương đổi thành Võ Trường. - Vũ Chuân đổi thành Vũ Kỳ.

- Nguyễn văn Lý trở thành Hoàng Hữu Kháng.

- Nguyễn Hữu Văn thành Tạ Quang Chiến.

- Hoàng Văn Phúc đổi thành Hồ Văn Nhất.

- Chu Phương Vương trở thành Võ Viết Định.

- Nguyễn Quang Chí mang tên Hoàng Viết Thắng.

- Trần Đình đổi thành Trần Văn Lợi.

Có một điều đáng lưu ý là các họ tên người Nùng, Thổ trở thành họ tên người Kinh. Lúc đó vào khoảng tháng 3 năm 1947, được rèn luyện trong trường “Công nhân” bên Nga, ông Hồ rất thạo kỹ thuật ngụy trang và bảo vệ bản thân như một lãnh tụ. Trường ấy về sau nhiều bọn CS lấy le, gọi “Trường Đại học Đông Phương”, và bọn Tàu Cộng còn thêm thắt là “Học viện Đông Phương”. Trình độ đa số học viên mới ở bậc tiểu học, hay vừa thoát nạn mù chữ mà tôi đã từng gặp và nói chuyện”. (Lời ông Nguyễn Ngọc Nga, cựu giáo sư Nga văn trường đại học ngoại giao Hà Nội).

Vốn tính đa nghi như Tào Tháo, ông Hồ không chọn người Kinh làm bảo vệ vì sợ bị mua chuộc, phản bộị “Hồi đó, người Nùng, người Tày biết mẹ gì chủ nghĩa Mác Lênin, mà họ cũng không thiết tha gì với mấy cái nhãn hiệu “Độc lập, Tự do” của đảng CS ra sức tuyên truyền (Nguyễn Ngọc Nga).

Vấn đề thời sự hiện nay là đưa một người Nùng tên Nông Đức Mạnh lên làm chủ tịch quốc hội bù nhìn, là một âm mưu thầm kín của đảng CS. Đó là lý do bên trong của việc cất nhắc một “ tên Mán” lên làm chủ tịch một cơ quan quyền lực nhất nước ta”. Nông Đức Mạnh được đảng chỉ định, quốc hội bỏ phiếu bầu “cuội” cho có hình thức và Nông Đức mạnh đều đắc cử vẻ vang với 98% số phiếu.

Nhiều người chưa hiểu CS. suy luận rằng sở dĩ VC chọn Nông Đức Mạnh lên làm chủ tịch Quốc hội chỉ vì Mạnh là con rơi của Hồ Chí Mịnh với một cô gái làng Thượng lúc ông ta còn ẩn náu trong núi rừng Việt Bắc. Các đồng hương chưa quên cuộc biểu tình của hàng vạn sinh viên trước công trường Thiên An Môn, Bắc Kinh.. Có mấy vạn sinh viên đại học xuống đường, tranh đấu đòi tự do dân chủ. Họ căng biểu ngữ, hô hào bất bạo động. Ho. cắm trại, ăn ngủ tại chỗ với mục đích cương quyết liều chết để tranh đấu cho tự dọ

Trước tình thế có vẻ trầm trọng, liên hệ đến sự an nguy của đảng CS, nhà cầm quyền CS họp và quyết định “đàn áp không khoan nhượng”. Bắc Kinh lúng túng trong sự lựa chọn các đơn vị quân độị Binh sĩ người Hán, chắc chắn họ sẽ không nổ súng vào đám biểu tình tay không dù có lệnh. Nếu cưỡng bách, có thể xẩy ra tình thế nguy hiểm: “Ho.. sẽ quay súng bắn lại bọn cầm quyền!”. Biện pháp cuối cùng, chính Giang Trạch Dân điều động sư đoàn từ Mãn Châu về Bắc Kinh đàn áp. Thuộc dòng ngoại tộc, quân đội Mãn Châu xả súng bắn vào đám người không có phương tiện tự vệ một cách dã man.

Chiến xa của họ cứ cán lên bất cứ ai cản đường. Máu nhuộm đỏ cả quãng trường Thiên An Môn. Hàng trăm người chết liền tại chỗ. Hàng ngàn người bị thương, máu me lênh láng. Các lãnh tụ sinh viên bị bắt, trói thúc ké, hành quyết như tộị.. phản quốc!

Nô lệ Nga, Tàu nhiều năm, thấy quan thầy làm gì, VC “sao y bản chánh” không cần suy nghĩ.... Tuy vậy, bọn bồi bút luôn luôn ca ngợi “đảng ta sáng suốt, luôn luôn vận dụng chủ nghĩa Mác Lê một cách sáng tạo, nhuần nhuyễn...”, rồi bê nguyên xi “vụ cải cách ruộng đất” ở miền Bắc vào năm 1955, giết oan hàng triệu người. Bây giờ với 2 tiểu đoàn thiện chiến người Nùng (gần 1000 người) sẵn sàng làm nhiệm vụ Thiên An Môn mới, khi có biến động.

Chọn Nông Đức Mạnh, CS muốn nặn ra “một ông vua Nùng để sai khiến và lừa bịp dân Nùng cùng đồng bào thiểu số khác”. Bọn binh lính Nùng, khi thấy “ông vua Nông Đức Mạnh” ra lệnh, mặc sức “bóp cò” vì có phải cùng dòng giống với họ đâu mà khoan nhượng? Còn Nông Đức Mạnh cũng sung sướng... ngỡ ngàng. Chính hắn cũng chưa biết đó là họa hay phúc? Biết mình làm kép đóng trò, nhưng nếu đóng không đúng bài bản, hay “cương” có thể mất mạng như chơị Mỗi lần công du, thăm quốc gia nào, Mạnh có người thông dịch là bí thư đảng bộ, mớm ý, mớm lờị Trung ương đảng chỉ muốn Nông Đức Mạnh đóng trò “một cách xuất sắc, không được tùy tiện, hay có sáng kiến gì... Vi phạm các điều ấy là tự sát. Khi được tin Nông Đức Mạnh lên làm chủ tịch quốc hội, dư luận trong nước rất phẫn uất. Tại các quán cà phê, họ công khai phát biểu:

- Bộ hết người rồi sao chọn “thằng Mán” lên làm chủ tịch quốc hội ?

- Nông Đức Mạnh có khả năng, đạo đức gì được làm chủ tịch quốc hội ?

Chúng tôi xin kể lại một trường hợp khác trong lịch sử để chứng minh rằng “nguyên tắc bảo vệ quyền lợi và quyền lực của đảng trước sau như một”. Trường hợp ấy là Tổng đốc Vi Văn Định. Cho tới nay, nhiều người vẫn còn thắc mắc tại sao Hồ chí Minh không những tha chết cho Tổng đốc Vi Văn Định, một kẻ bị dân chúng ta thán, nguyền rủa và đảng của ông Hồ kết tội là “phản động, đại Việt gian” mà còn biệt đãi như thượng khách?

Trong khi đó, người ái quốc như Tạ Thu Thâu hay Khái Hưng, hoặc như Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi lại bị giết một cách dã man. Chúng tôi muốn nhắc đến nguồn gốc một Tổng đốc người Nùng, đã lên tột đỉnh danh vọng này để đồng hương thấy rõ.

Hứa Hoành

Người Nùng là một nhánh của dân tộc Choang tại Trung Quốc, tên dân tộc được dựa vào Họ Nùng mà ra, khác với người Hoa Nùng được dựa vào nghề nghiệp

Tại tỉnh Hải Ninh (nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) có rất nhiều người Hán sinh sống, họ tự xưng là người Ngái, sán Ngái tức là người trong núi, nhưng thật tế họ là người Hán nói ngôn ngữ Khách gia. Vào thế kỷ 17-20, từ Khâm Châu, Liêng Châu, Phòng Thành, Linh Sơn của tỉnh Quảng Đông (nay các huyện này thuộc tỉnh Quảng Tây) di cự sang đây sinh sống.. trong đó có một số người tham gia khởi nghĩa thái bình thiên quốc bị triều đình Mãn Thanh trấn áp và trục xuất sang đây.

Vào năm 1885 Trung Quốc và Pháp ký kết điều ước Thiên Tân, lấy sông Bắc Luân làm biên giới, địa phận Giang Nam thuộc Việt Nam, nguyên người Ngái định cự tại đây thuộc Việt Nam quản lý. Vào năm 1946 người Pháp tiến hành điều tra dân số và nghề nghịêp của cư dân định cư tại đây, người Ngái (Hán) định cư tại đây đa số họ đều làm nghề nông, khi điền thông tin cá nhân của mình họ đều ghi nghề nghiệp làm nông. Căn cứ điều ước Thiên Tân, lãnh thổ này đã thuộc Việt Nam nên người Pháp gọi nhóm người (Hán) này là người Trung Quốc thì không được, nhóm người này lại không biết tiếng Việt, ngôn ngữ, chữ viết, tập quán, văn hóa và sinh hoạt là của người Hán, vì vậy lại không thể nói họ là người An Nam. Sau cùng căn cứ vào nghề nghiệp làm nông của họ, người Pháp đã đặt tên cho nhóm người này ( Hán) là người nùng (nùng là nông âm ngữ tiếng Hoa), họ là một phần của dân tộc thiểu số của Việt Nam thời Pháp thuộc.

Nùng Hải Ninh thực tế là nhóm người Hán làm nông nghiệp tại tỉnh Hải Ninh. Tập quán của người Nùng Hải Ninh như người Hán (người Khách gia), ngôn ngữ của người Nùng Hải Ninh thuộc phương ngữ người Hán (tức ngôn ngữ Khách gia), rất nhiều người biết nói tiếng Quảng. Vậy người Tầu Nùng ở miền nam nên gọi là Khách Gia hay Ngái cho đúng.

Người Khách Gia ở khắp Đông Nam Á, đến tận Malayxia, Singapore, và Indonexia .

Phần lớn họ kết hôn với người Quảng, và cả địa phương, các gia đình Ngái - Quảng hoà trộn, con cái nói thạo cả hai thứ tiếng . Dần dần, chẳng còn biết ai là Ngái, ai là Quảng nữa. Chỉ căn cứ vào họ bố mà biết dân tộc thôi.

Người Nùng - sắc dân Choang (Zhung) miền nam nước Trung Hoa là dân tộc ít người nhất.
Tại VN, người Choang được xác định trong lịch sử là người Nùng

-----------------------------------------------------------

36 Bức thư mật liên hệ đến Hồ Chí Minh của vợ chồng Nguyễn Thị Vàng gửi chủ tịch Quốc Hội Việt Nam

37 Bức thư mật liên quan đến cuối đời Hồ Chí Minh (lưu giữ tại văn phòng chủ tịch quốc hội Việt Nam) của vợ chồng Nguyễn Thị Vàng.

38 Bán Nguyệt San Tự Do Ngôn Luận, số 68, trang 27 & 28.

39 Bức thư mật liên quan đến cuối đời Hồ Chí Minh (lưu giữ tại văn phòng chủ tịch quốc hội Việt Nam) của vợ chồng Nguyễn Thị Vàng.

source: www.vietvungvinh.com

-------oo0oo-------

Covang

lacomau
Việt Cộng đối ngoại thì nhu nhược, bán nước,
đối nội thì tàn ác và hà khắc với nhân dân.


Những hình ảnh đẹp của Cộng Đồng Việt Nam

ucchau
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội

Covang

CoVang

ucchau
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội

congdong

congdong

congdong

congdong

congdong

covang
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội

covang
Lá cờ vàng Việt Nam được chính quyền địa phương vinh danh và luôn được đồng bào trân trọng trong mọi lễ hội

 

Home Page Vietlist.us


bottom