Đừng nghe những gì Cộng sản nói. Hãy nhìn những gì Cộng sản làm !
Đừng sợ những gì Cộng sản làm. Hãy làm những gì Cộng sản sợ !
-------------oo0oo--------------
Trang Thời Sự
--------o0o--------
Tử huyệt của Trung Quốc: Công nghệ bán dẫn.
Tôn Thất Thông
Giữa năm 2018, TT Trump ban hành đạo luật cấm các công ty ở Mỹ cung cấp sản phẩm điện tử cho Hoa Vi (Huawei) và một số hãng khác của Trung Quốc. Dường như hiệu quả của lệnh cấm không cao, cho nên tháng 5.2020, Mỹ nới rộng lệnh cấm đến tất cả các công ty khác trên thế giới đang sử dụng công cụ, thiết bị hoặc bản quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ, các công ty đó cũng bị ràng buộc bởi lệnh cấm năm 2018. Có phải đó là cuộc bao vây toàn diện, một độc chiêu điểm vào tử huyệt của Trung Quốc? Không bàn vào tính chất chính trị của quyết định nói trên, bài biên khảo sau đây tìm cách lý giải hậu quả nào Trung Quốc sẽ hứng chịu.
Vài dòng về công nghệ bán dẫn
Bán dẫn (Semiconductor) là gì? Nó quan trọng thế nào? Bán dẫn là loại vật liệu không thể thiếu được trong mọi sản phẩm điện tử ngày nay. Trong tiền bán thế kỷ 20, các sản phẩm điện tử đều có vật liệu chủ đạo là đèn chân không (Vacuum tubes), vừa nặng nề, kích thước lớn, năng suất không cao và tiêu thụ nhiều điện năng. Nhưng kể từ 1959, khi Transistor được đưa vào sản xuất hàng loạt, chất bán dẫn đã chấm dứt kỷ nguyên đèn chân không và mở đầu một cuộc cách mạng có một không hai trong công nghiệp điện tử kéo dài tới hôm nay và chi phối sự phát triển của mọi lĩnh vực khác.
Từ thập niên 1960, dựa trên nguyên lý hoạt động của transistor nhị nguyên, người ta bắt đầu nghiên cứu và sản xuất IC (Integrated Circuit), tạm dịch là mạch tích hợp thế hệ một, cũng thường được gọi là Chip. Mỗi IC lớn bằng ngón tay chứa hàng chục hoặc hàng trăm transistor để thực hiện một hoặc nhiều chức năng tiêu chuẩn được thiết kế. Vài loại IC tiêu biểu: cổng tín hiệu, flip-flop, máy đếm v.v... Nhờ công nghệ IC, máy tính hiện đại năng suất cao ra đời. Mô hình IBM-360 là gia đình máy tính nổi tiếng lúc đó, chiếm ngự thị trường thế giới suốt hai thập niên 60 và 70. Kể từ đây, người ta đổ xô vào việc nghiên cứu ứng dụng chất bán dẫn trong các IC với chức năng ngày càng phức tạp, tổng hợp ngày càng nhiều transistor trong một linh kiện và tiêu thụ ngày càng ít năng lượng.
Sáng kiến đầu tiên là chế tạo các Chip vạn năng trong đó chứa sẵn một loạt các linh kiện cơ bản; chúng có thể được biến đổi chức năng bằng chương trình theo yêu cầu đặc thù của khách hàng, đó là những FPGA (Field-programmable Gate Array). Sản phẩm này đã giúp các công ty nhỏ có thể sử dụng công nghệ cao cấp để chen chân vào thị trường, cạnh tranh với các tập đoàn lớn. Tuy nhiên, FPGA chỉ phù hợp cho những ứng dụng đặc biệt với số lượng nhỏ (thí dụ tối đa vài chục ngàn chiếc), hoặc tạm thời sử dụng nó để thử nghiệm chức năng của các sản phẩm mẫu (Prototype).
Để sản xuất hàng loạt với số lượng cao và giá thành hạ, ASIC (Application Specific Integrated Circuit) là lời giải tốt nhất, nhưng cũng tốn kém nhất để đầu tư trong thời gian thiết kế thử nghiệm, cho nên chỉ có những tập đoàn lớn với phương tiện tài chánh dồi dào và nhiều chuyên gia lành nghề mới có thể đi vào hoạt động đầy rủi ro này. ASIC cũng là bước phát triển cao nhất của công nghệ bán dẫn và chi phối xu hướng phát triển ngành điện tử thế giới. Thống kê từ 1970 đến 2018 cho biết, trung bình cứ hai năm, mức độ tổng hợp của ASIC tăng lên gấp đôi [xem Wikipedia, Moore’s Law] với lượng tiêu thụ điện năng giảm xuống hơn một nửa.
Nếu trong thập niên 1980, ASIC còn sử dụng công nghệ sản xuất Chip ở độ chính xác micro mét, thì bây giờ, hãng nào không nắm vững công nghệ chính xác dưới 10 nano mét thì không có cơ hội cạnh tranh trên thị trường. Các ứng dụng quan trọng nhất và cũng phức tạp nhất hiện nay là CPU (Central Processing Unit), bộ nhớ (Memory) và các SoC (System on a Chip), tức là các Chip hàm chứa cả CPU, bộ nhớ và các chức năng điều khiển khác được tổng hợp trong một linh kiện duy nhất. Ứng dụng dễ thấy nhất của SoC là smartphone. Chúng ta hãy so sánh máy tính IBM-360 ở thập niên 1960, dù lớn bằng một toa xe lửa, nhưng năng lực tính toán của nó còn thua xa một smartphone bỏ túi mà chúng ta đang dùng hàng ngày.
Nói tóm tắt, không có một ngành nào hiện nay không sử dụng sản phẩm điện tử. Và không có sản phẩm điện tử nào mà không hàm chứa sản phẩm bán dẫn ngày càng cao cấp. Công nghệ bán dẫn đang và sẽ còn chi phối sự phát triển lâu dài của mọi ngành công nghệ thế giới. Hậu quả của việc cấm vận sản phẩm bán dẫn đối với Liên Xô và các xứ Đông Âu trong hậu bán thế kỷ 20 cũng cho chúng ta một cái nhìn tương đối: sự tụt hậu của các quốc gia đó gắn liền với khả năng tiếp cận rất hạn chế đến công nghệ bán dẫn mà chủ yếu là máy tính điện tử.
Trung Quốc đang đứng ở đâu?
Công nghệ bán dẫn bắt đầu được sử dụng đại trà trên thế giới vào cuối thập niên 1950. Lúc đó, Trung Quốc vẫn còn là một quốc gia lạc hậu, thiếu tiền, thiếu chuyên viên để bắt đầu xây dựng các ngành công nghiệp hiện đại. Cho đến đầu thập niên 1980, Trung Quốc vẫn chưa có một nhà máy sản xuất Chip thông dụng thế hệ một. Lúc ấy trong các nước gốc Hoa, chỉ có Đài Loan và Hồng Kông là còn theo kịp cạnh tranh với các nước khác trong lĩnh vực sản xuất Chip thế hệ một với độ phức tạp thấp. Nhưng hiện nay, ảnh hưởng của Hồng Kông không đáng kể, chỉ có Đài Loan là còn cạnh tranh trong lĩnh vực sản xuất Chip cao cấp.
Sau 40 năm quyết tâm xây dựng ngành bán dẫn trong kế hoạch thực hiện giấc mộng bá quyền, Trung Quốc đạt được gì? Bảng thống kê về doanh thu các nước trong lĩnh vực sản xuất sản phẩm bán dẫn cho chúng ta một cái nhìn tổng quát [xem Zur Verth, trang 26]:
2008 | 2013 | 2018 | |
Mỹ | 48% | 53% | 49% |
Liên Âu | 10% | 8% | 9% |
Nhật | 21% | 13% | 9% |
Hàn Quốc | 12% | 15% | 24% |
Đài Loan | 7% | 6% | 5% |
Trung Quốc | 1% | 2% | 4% |
Còn lại thế giới | 1% | 2% | 1% |
Sau 40 năm cố gắng, Trung Quốc chỉ mới đạt được thị phần 4% trên thế giới và cũng cần lưu ý rằng, Trung Quốc chỉ mới sản xuất được các Chip có độ tích hợp vừa phải. Các Chip phức tạp, thí dụ như CPU đời mới trong smartphone của Hoa Vi có độ tổng hợp và chính xác cao (7 nano mét), thì họ không đủ trình độ để sản xuất, mà phải giao thiết kế cho công ty TSMC (Taiwan Semiconductor Manufacturing Corp) để chế tạo.
Nếu xét riêng về năng lực sản xuất bán dẫn của các công ty Trung Quốc so với công ty các nước khác, thì tỉ lệ về công suất còn thấp hơn. Mãi đến quí I năm 2020, Trung Quốc mới có một công ty sản xuất Chip lọt vào TOP-10 trên thế giới, đó là HiSilicon, công ty con của Hoa Vi. So với 10 công ty hàng đầu dưới đây, Trung Quốc chỉ mới chiếm một tỉ lệ công suất 3,7%. So với toàn thế giới thì tỉ lệ còn thấp hơn.
Bảng xếp hạng doanh thu quí I năm 2020 (tỉ US$)
1. Intel US | 19,5 | |
2. Samsung Hàn Quốc | 14,8 | |
3. TSMC Đài Loan | 10,3 | |
4. SK Hynix Hàn Quốc | 6,0 | |
5. Micron US | 4,8 | |
6. Broadcom US | 4,1 | |
7. Qualcomm US | 4,0 | |
8. TI US | 3,2 | |
9. Nvidia US | 3,0 | |
10. HiSilicon TC | 2,7 | |
Tổng cộng TOP-10 | 72,4 |
Nguồn: Company Reports,
IC Insights Strategic Reviews Database
Nếu chỉ đọc các nghị quyết chính trị hoặc quan sát các tuyên bố hùng hổ của quan chức Trung Quốc, người ta có cảm giác rằng, Trung Quốc sẽ bắt kịp các nước phương Tây về công nghệ bán dẫn trong vài thập niên tới. Các thành quả của Trung Quốc về vũ khí, về không gian, về thiết bị điện tử ứng dụng dễ làm cho chúng ta có ảo giác đó. Nhưng thống kê quốc tế có một ngôn ngữ khác. Kể từ lúc chiến lược “Made in China 2025” ra đời, Trung Quốc vẫn không ngừng khẳng định rằng, đến cuối 2020, họ sẽ tự sản xuất 40% nhu cầu sản phẩm bán dẫn trong nước, và sẽ đạt 70% đến năm 2025 [xem Rohde]. Mục tiêu này xem ra sẽ bị trì hoãn ít nhất 25 năm, thậm chí có thể không bao giờ đạt được.
Lĩnh vực sản xuất CPU và SoC cao cấp thì Trung Quốc phải dựa vào các nhà sản xuất ngoại quốc, chủ yếu là TSMC. Trong lĩnh vực quan trọng tiếp theo là bộ nhớ (memory), tình hình cũng không khả quan hơn. Công ty đầu tiên của Trung Quốc về bộ nhớ DRAM (Dynamic Random Access Memory) là Changxin Memory Technologies (CXMT) có kế hoạch sẽ thử DRAM đầu tiên vào cuối năm 2019. Cho đến bây giờ, thị trường quốc tế vẫn không hề biết đến sản phẩm của CXMT. Với vài ngàn nhân viên và ngân sách 1,5 tỉ US$ mỗi năm, CXMT khó lòng bắt kịp các nước khác [xem Gerstl]. Ngoài ra, với công nghệ 19 nano mét, làm sao CXMT nói chuyện ngang hàng với Samsung, nói gì tới cạnh tranh?
Mục tiêu mà Trung Quốc đưa ra về sự độc lập với các nguồn nhập khẩu sản phẩm bán dẫn đòi hỏi nỗ lực lớn về công nghệ và đầu tư tài chánh khổng lồ. Thành công hay không cũng không có gì bảo đảm [xem Rohde]. Đồ thị sau đây cho thấy là Trung Quốc chỉ cung ứng được 15% nhu cầu bán dẫn nội địa, thay vì 40% năm 2020 và 70% năm 2025 theo kế hoạch.
Hiệp hội Kỹ nghệ bán dẫn Mỹ (Semiconductor Industry Association) có thống kê còn ảm đạm hơn: “Khoảng cách giữa nhu cầu thị trường Trung Quốc với công suất sản xuất nội địa ngày càng xa. Các nhà sản xuất bán dẫn Trung Quốc chỉ đáp ứng được 9% nhu cầu thị trường nội địa, phần còn lại do nhập khẩu. [...] Hơn một nửa số lượng nhập khẩu xuất phát từ Mỹ” [xem Müller].
Đấy là tình trạng công nghệ bán dẫn Trung Quốc trong lĩnh vực máy tính dân dụng và smartphone. Trong lĩnh vực công nghiệp đặc biệt thì còn tồi tệ hơn. Công ty nghiên cứu thị trường IC Insights cho biết là Trung Quốc chưa có một công ty bán dẫn nào có thể sản xuất các linh kiện đặc thù cao cấp như: trung tâm xử lý tín hiệu (Signal Processor), CPU công suất cao dùng trong máy chủ, MCU (Microcontroller Unit), linh kiện có logic đặc thù (Special Logic IC). Đó là những Chip bán dẫn không thể thiếu trong lĩnh vực tự động hóa và thông minh nhân tạo (Artificial Inteligence). Các loại linh kiện này đang chiếm 1/2 thị trường Trung Quốc, tất cả đều phải nhập hoặc mua từ các công ty đa quốc gia đang hoạt động trên lục địa và đã có hàng chục năm kinh nghiệm với hàng vạn nhân viên trên thế giới [xem Gerstl].
Trung Quốc không sản xuất được linh kiện cao cấp và nếu không tiếp cận được đến các nguồn cung cấp linh kiện đó, toàn bộ các ngành khác sẽ bị chậm lại nhiều thập niên: điện tử dân dụng, công nghiệp tự động hóa, nghiên cứu vũ khí hiện đại, ngành không gian, sản xuất dược phẩm v.v... vì tất cả phương tiện sản xuất đó đều là thành phẩm cuối cùng của linh kiện bán dẫn cao cấp.
Đòn chí mạng của Mỹ: cấm vận Hoa Vi
Từ giữa năm 2018, các công ty ở Mỹ không được phép cung cấp sản phẩm, dịch vụ và sở hữu trí tuệ cho Hoa Vi. Biện pháp này tuy gây nhiều khó khăn, nhưng Hoa Vi có đủ khôn ngoan để đi đường vòng và tiếp tục thúc đẩy hoạt động của mình. Các nước đồng minh cũng chưa tỏ dấu hiệu sẽ đi theo con đường cứng rắn của Mỹ. Ngoài ra, các liên doanh với công ty Mỹ đang hoạt động ở ngoại quốc thì không bị ràng buộc bởi lệnh cấm, cho nên họ vẫn có thể cung cấp sản phẩm cho Hoa Vi, bằng cách này hay cách khác. Như vậy, lệnh cấm năm 2018 dường như không có hiệu quả gì đặc biệt.
Vì thế, đến tháng 5.2020, Mỹ giáng thêm một đòn chí mạng: cấm luôn tất cả các công ty của mọi nước khác cung cấp sản phẩm và dịch vụ cho Hoa Vi, nếu trên chuỗi cung ứng, các công ty này sử dụng thiết bị, phần mềm, công cụ thiết kế hoặc bản quyền sở hữu trí tuệ của các công ty Mỹ. Biện pháp này cực kỳ hiểm độc đối với lĩnh vực bán dẫn cao cấp không những đối với Hoa Vi mà cho cả ngành bán dẫn Trung Quốc. Trong thế giới phương Tây và trong lĩnh vực ASIC, không có một công ty nào mà không sử dụng ít nhiều bản quyền sở hữu trí tuệ của Mỹ. Với biện pháp này, Hoa Vi khó lòng kiếm được đối tác cung cấp Chip cao cấp, ngoại trừ hợp tác với các nước đặc biệt như Iran hoặc Nga. Tuy nhiên, công nghệ bán dẫn của các nước này thì cũng rất tầm thường, chỉ hơn Trung Quốc một ít. Có vẻ như công nghệ bán dẫn Trung Quốc sẽ bị kéo lùi nhiều thập niên.
Công ty cung ứng quan trọng nhất của Hoa Vi là TSMC (Đài Loan) đã phải từ chối các đơn hàng tiếp tục, chỉ ba ngày sau lệnh cấm của Mỹ. „Đó là một quyết định khó khăn cho chúng tôi [TSMC], vì Hoa Vi là khách hàng quan trọng thứ hai của công ty, nhưng các nhà sản xuất Chip phải tuân theo qui định của Mỹ“ [xem Nikkei] vì vấn đề bản quyền sở hữu trí tuệ. Được biết là Hoa Vi đã tiếp cận các nhà sản xuất Chip châu Âu như Infineon (Đức) và ST Microelectronics (Hà Lan), nhưng không có kết quả. Các công ty này đều ít nhiều phụ thuộc vào sở hữu trí tuệ của Mỹ, cho nên cũng không muốn có quyết định nào vi phạm lệnh cấm.
Chỉ riêng quyết định mới đây của TSMC cũng cho chúng ta thấy rằng, Hoa Vi chỉ có thể sản xuất smartphone với các CPU đang tồn kho. Ngoài số lượng đó, các điện thoại đời mới của Hoa Vi sẽ ra thị trường chậm trễ ít nhất là một năm, hoặc lâu hơn, không ai đoán trước được. Không chỉ có Hoa Vi, mà các tập đoàn smartphone lớn của Trung Quốc như Oppo, Vivo và Xiaomi cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Trong tình hình hiện nay, thật khó cho Trung Quốc để kiếm được đối tác sản xuất Chip cao cấp trong thế giới phương Tây để thực hiện các đơn hàng sản xuất ASIC cao cấp.
Một vấn đề hóc búa hơn là, làm thế nào để Hoa Vi có thể tiếp tục nghiên cứu và sản xuất các thiết bị 5G, một đề tài đang nóng bỏng? Họ có thể thiết kế những hệ thống ưu việt, nhưng làm thế nào để sản xuất bộ mẫu để thử nghiệm? Làm thế nào để sản xuất hàng loạt sau này? Trong các hệ thống 5G, có đầy rẫy CPU và SoC cao cấp mà Trung Quốc chưa đủ trình độ để tự sản xuất và phải dựa vào các nhà sản xuất Chip khác. Có lẽ Mỹ không cần phải nhọc lòng thuyết phục đồng minh tẩy chay hệ thống 5G của Hoa Vi. Chỉ riêng lệnh cấm tháng 5.2020 vừa qua đã làm khách hàng bắt đầu nghi ngờ khả năng cung ứng và chất lượng sản phẩm 5G của Hoa Vi sau này. Quyết định vừa qua của Anh và Pháp vể 5G của Hoa Vi có lẽ xuất phát từ góc nhìn này, bên cạnh các sức ép chính trị khác.
Rõ ràng là biện pháp trừng phạt nói trên có mục đích „chấm dứt các tiến bộ công nghệ của Hoa Vi và bẻ gãy tham vọng 5G“ như Jefferies Equity Research nhận xét. Và bộ trưởng ngoại giao Mike Pompeo cũng không giấu giếm rằng, biện pháp trừng phạt sẽ „nâng cao an ninh quốc gia trong thời đại mà Trung Quốc đang cố gắng chiếm ưu thế trong các lĩnh vực mũi nhọn và kiểm soát các công nghệ nhạy cảm“ [xem Nikkei]. Mục đích đó tỏ ra là Mỹ đã đạt được sau chưa đầy hai tháng thi hành lệnh cấm toàn diện, vì Hoa Vi là con chủ bài của Trung Quốc trong công nghiệp bán dẫn. Ngoài ra, lệnh cấm không chỉ giới hạn cho Hoa Vi mà còn đối với tập đoàn ZTE cũng như hàng chục các công ty khác nhỏ hơn. Con đường phát triển của Trung Quốc trong lĩnh vực mũi nhọn này xem ra sẽ vô cùng khó khăn, ngày nào Mỹ chưa dỡ bỏ lệnh trừng phạt.
Đặc biệt ZTE bị thiệt hại nặng nề từ lệnh cấm. Hơn 1/3 linh kiện quan trọng trong các đời smartphone là hàng nhập khẩu từ Mỹ. Dù doanh thu các smartphone này không đóng vai trò quan trong trong thị trường nội địa, nhưng ở Mỹ thì chúng đứng hàng thứ tư. Có khá nhiều phân tích cho rằng, ZTE sẽ sớm biến mất trên thị trường. Sự phụ thuộc vào các công ty Mỹ quá lớn để ZTE có thể vượt qua khó khăn [xem Müller].
Tương lai ngành bán dẫn Trung Quốc sẽ ra sao?
Câu hỏi này tùy thuộc khá nhiều vào một loạt câu hỏi còn bỏ ngỏ. Lệnh cấm đã đánh trúng chỗ yếu của Trung Quốc, nhưng liệu nó có hiệu ứng Boomerang quay ngược lại đập vào sự tăng trưởng kinh tế của Mỹ hay không? Liệu sức ép của các công ty Mỹ có mạnh để chính phủ Mỹ phải chấm dứt lệnh cấm? Liệu sự cứng rắn hiện nay là chiến lược nhất quán, hay chỉ là chiêu trò tranh cử của Donald Trump? Liệu Joe Biden có thể thắng cử và chính sách của ông ta sẽ thế nào đối với Trung Quốc? Chắc hẳn chúng ta phải đợi đến sau kỳ bầu cử ở Mỹ mới phỏng đoán được một câu trả lời rõ ràng.
Nhưng dường như sự kiềm chế Trung Quốc là chiến lược lâu dài của Mỹ, bất kể Dân Chủ hay Cộng Hòa như nhiều nhà phân tích nhận định. Như thế, lệnh cấm vừa qua đã làm bộc lộ sự bối rối của Hoa Vi, tạo nên phản ứng hung hãn của chính quyền Trung Quốc và hiệu quả lên sự tăng trưởng ngành điện tử sẽ xuất hiện tương ứng với một độ trì hoãn nào đó. Mỹ không cần dùng đến biện pháp cấm vận trên bình diện quốc gia như họ đã làm với Liên Xô trong thời kỳ chiến tranh lạnh. Mỹ chỉ cần nới rộng các công ty trong danh sách đen, gọi là „entity list“, thì sẽ làm cho Trung Quốc điêu đứng, công việc nghiên cứu trong mọi ngành sẽ chậm lại, một số dự án nghiên cứu vũ khí, an ninh và không gian phải tạm ngưng vì thiếu linh kiện thiết bị. Đợi đến lúc Trung Quốc xây dựng khả năng sản xuất ASIC cao cấp (7 nano mét hoặc chính xác hơn), có lẽ họ sẽ mất vài thập niên, cũng có thể họ sẽ không bao giờ đạt được.
Truyền thông Trung Quốc thường trích dẫn chiến lược „Made in China 2025“ để tuyên truyền rằng, họ đang bắt kịp Mỹ về công nghệ và sẽ vượt lên hàng đầu trong vài thập niên. Chỉ là duy ý chí, nếu không nói là xảo ngôn. Chính chuyên gia Trung Quốc có tư tưởng thực tế cũng xem đó là loại tuyên truyền sáo rỗng.
Lấy vài thí dụ để so sánh: Nhật đã từng song hành ngang ngửa với Mỹ trong suốt các thời kỳ phát triển linh kiện điện tử, từ transistor, qua IC thông dụng đến ASIC. Họ đã từng có những tập đoàn hạng nhất làm công ty Mỹ phải kính nể, họ có thể sản xuất CPU phức tạp, sản xuất bộ nhớ có độ tích hợp cao. Nhưng cuối cùng Nhật vẫn không bắt kịp Mỹ dù rằng với tư cách đồng minh, họ có khả năng tiếp cận vô giới hạn vào công nghệ của Mỹ. Hàn Quốc có thể thắng Mỹ trong lĩnh vực bộ nhớ, nhưng phải vĩnh viễn nhường chổ cho Mỹ về CPU cao cấp. Các công ty châu Âu với bề dày công nghệ hơn 100 năm vẫn còn thua Mỹ về sản xuất Chip, mặc dù trong thập niên 70, họ là đối tác rất bình đẳng, không ai hơn ai.
Liệu Trung Quốc có thể làm tốt hơn các nước nói trên để vượt qua Mỹ và tiến lên dẫn đầu thế giới về công nghệ hay không? Ôi, thật là gay go. Trung Quốc hiện nay với 4% thị phần bán dẫn so sánh với Mỹ đã đạt 50%, làm sao vượt qua khoảng cách này trong vài thập niên? Có lẽ là ảo tưởng.
Nếu xem việc kiềm chế Trung Quốc là quan trọng để tránh cho thế giới một thảm họa vì „Trung Hoa mộng“, thì việc kiềm chế Trung Quốc trong lĩnh vực công nghệ bán dẫn cao cấp là biện pháp vô cùng quan trọng. Tương lai công nghệ bán dẫn gắn liền với tương lai của Trung Quốc.
Thêm một cước chú nhỏ cho Việt Nam: Trong thế đối đầu Trung-Mỹ hiện nay, đi theo Trung Quốc là bước vào cửa tử, hết đường cứu vãn nền sản xuất điện tử quốc gia, đấy là chưa kể những thiệt hại khác to lớn hơn.
Tôn Thất Thông
Tháng 7 năm 2020
Tài liệu tham khảo:
En.wikipedia.org – các bài viết trong Wikipedia tương đối phong phú, đủ đế độc giả có tầm nhìn bao quát về các vấn đề liên quan đến sản phẩm bán dẫn. Xin xem các từ khóa semiconductor, transistor, integrated circuit, FPGA, application-specific integrated circuit, system on a chip, MCU, Moore’s Law v.v...
Gerstl, Sebastian – Chinas Chipindustrie noch weit von der Weltmarktspitze entfernt (Kỹ nghệ Chip Trung Quốc còn xa để đạt vị trí hàng đầu). Elektronik Praxis, 17.06.2019.
Müller, Mathias – NZZ Zürich 28.4.2018: Trump zielt auf die Achillesferse der chinesischen Hightech-Branche (Trump chỉa mũi dùi vào tử huyệt của ngành công nghệ cao Trung Quốc).
Nikkei Asian Review 18.5.2020: Cheng Ting-Fang & Lauly Li – TSMC halts new Huawei orders after US tightens restrictions (TSMC ngưng các hợp đồng với Huawei sau cấm vận của Mỹ).
Rohde, Roland – China Halbleiterstrategie gleicht einem Marathonlauf (Chiến lược bán dẫn của Trung Quốc xem ra là một cuộc đua Marathon). GTAI German Trade and Invest, 16.10.2019
Zur Verth, Stefan – Entwicklung der Halbleiterindustrie 2019 (Kỹ nghệ bán dẫn năm 2019). Báo cáo hàng năm của ZVEI (Hiệp hội Công nghiệp Điện và Điện tử Đức)
+++++++++++++++++++++++++++++++
Đất hiếm, điểm yếu của Mỹ trong cuộc đọ sức với Trung Quốc.
Đăng ngày: 28/07/2020 - 11:28
Ngành công nghiệp vũ khí của Mỹ lệ thuộc Trung Quốc. Nhà Trắng và Lầu Năm Góc cùng ý thức được về nghịch lý này và đã có những bước chuẩn bị đề phòng Bắc Kinh cắt nguồn cung cấp « nguyên liệu của thế kỷ 21 », như nhận định của nhà báo Guillaume Pitron, tác gia cuốn « Chiến tranh kim loại hiếm », NXB LLL (2018).
Một mỏ khai thác đất hiếm tại vùng Nội Mông. Trung Quốc kiểm soát 95 % sản lượng toàn cầu. REUTERS/Stringer
Truyền thông quốc tế dồn dập đưa tin về chiến tranh thương mại Mỹ-Trung từ mùa xuân 2018 với những vòng đàm phán kéo dài, rồi đến thỏa thuận bán phần, trong đó hai đối thủ tuyên bố tạm buông vũ khí.
Ở hậu trường, bộ Quốc Phòng Mỹ lặng lẽ mở lại hồ sơ đất và kim loại hiếm và đã có những bước quan trọng nhằm giảm bớt lệ thuộc vào nhà cung cấp gần như độc quyền của thế giới, đó là Trung Quốc.
Gần đây nhất, hãng tin Anh Reuters tiết lộ tháng 4/2020 Lầu Năm Góc quyết định tài trợ trở lại cho hai dự án khai thác đất hiếm nhằm phục vụ các mục tiêu quân sự của Hoa Kỳ. Hai dự án nói trên liên quan đến các mỏ đất hiếm tại Texas và California : mỏ thứ nhất do tập đoàn Úc Lynas cùng khai thác với một đối tác Mỹ và mỏ thứ nhì do tập đoàn MP Materials quản lý. Ngoài ra, vẫn theo Reuters, chính phủ Mỹ sắp thông báo hỗ trợ cho MP trong một dự án thứ ba tại bang Nevada.
Sự can thiệp trực tiếp của bộ Quốc Phòng
Trong giai đoạn từ 2004 đến 2017 có đến 80 % kim loại hiếm Hoa Kỳ mua vào đều xuất xứ từ Trung Quốc. Ông khổng lồ châu Á này kiểm soát 40 % các mỏ dự trữ kim loại hiếm của thế giới (Việt Nam 18 % và Mỹ 1 %, theo nghiên cứu của Trung tâm địa chất Hoa Kỳ US Geological Survey). Năm 2018, Trung Quốc là nguồn cung cấp 70 % đất hiếm tiêu thụ trên toàn cầu và cho đến hiện tại 90 % đất hiếm được khai thác từ các khắp nơi trên thế giới đều phải nhờ đến Trung Quốc sàng lọc, để từ « đất » trở thành « kim loại » và có thể cung cấp cho các tập đoàn công nghiệp.
Tháng 5/2019, đúng vào lúc chủ tịch Trung Quốc đến thăm một nhà máy khai thác kim loại hiếm ở Giang Tây, tại Washignton, Lầu Năm Góc công bố một báo cáo với mục tiêu « giảm mức độ lệ thuộc của Hoa Kỳ vào đất hiếm Trung Quốc ». Bộ Quốc Phòng Mỹ chủ trương « trích xuất các khoản ngân sách cần thiết cho việc khai thác, xử lý và tích trữ các nguồn kim loại thiết yếu đối với an ninh quốc gia ».
Trả lời RFI Việt ngữ, nhà báo Guillaume Pitron, chuyên nghiên cứu về đất hiếm và là tác giả của nhiều bộ phim tài liệu, nhiều bài phóng sự và cách nay hai năm cho ra mắt công chúng cuốn sách mang tên Chiến tranh Kim Loại Hiếm, Mặt Trái của Tiến Trình Chuyển Đổi Năng Lượng và Kỹ Thuật Số, NXB LLL (2018), không chút ngạc nhiên về việc bộ Quốc Phòng Mỹ trực tiếp can thiệp vào hồ sơ này.
Guillaume Pitron:Về phía Trung Quốc, hơn bao giờ hết, nước này ý thức được về thế thượng phong đang có được đối với Mỹ. Đây đương nhiên là một lợi thế cả về thương mại, lẫn công nghiệp và nhất là về mặt chiến lược. Không có đất hiếm của Trung Quốc, Mỹ không thể phát triển công nghệ chế tạo vũ khí, không có chiến đấu cơ F-35 hay xe bọc thép Abraham …
Vào lúc chiến tranh thương mại Mỹ- Trung đang lên đến cao trào vào năm 2019, ông Tập Cận Bình đã viếng thăm một nhà máy khai thác kim loại hiếm ở Giang Tây, miền nam Trung Quốc. Truyền thông nước này đã loan tin rộng rãi về sự kiện nói trên, như để ngầm nhắc nhở Washington đây là điểm yếu của Hoa Kỳ.
Về phía Mỹ, phản ứng của Washington bao hàm từ vế chính trị đến công nghiệp. Hoa Kỳ tìm cách giảm mức độ lệ thuộc vào Trung Quốc từ khâu khai thác các quặng mỏ, sàng lọc để có được kim loại hiếm. Thế rồi khâu thứ ba là biến các kim loại hiếm này thành nam châm. Chỉ dưới dạng sau cùng này mới có thể phục vụ cho các công nghệ cao. Dân biểu bang Florida, Marco Rubio và thượng nghị sĩ bang Texas Ted Cruz đã vận động để cho ra đời một đạo luật cho phép khởi động lại các mỏ đất hiếm ở Mỹ.
Kế đến các tập đoàn công nghiệp đã nhập cuộc để khai thác mỏ đất hiếm ở bang Texas. Tuy nhiên khâu tiếp theo là sàng lọc để chắt ra được các kim loại hiếm và để chúng có thể được đưa vào các khâu sản xuất … Tất cả những giai đoạn này đòi hỏi rất nhiều thời gian, có thể là nhiều năm. Lầu Năm Góc can thiệp trực tiếp vào hồ sơ này, vì đây là một vấn đề liên quan đến an ninh của bản thân Hoa Kỳ. Bộ Quốc Phòng Mỹ huy động nhiều đối tác trong dự án này.
Hiện tại ngành công nghiệp quốc phòng Mỹ chỉ sử dụng một khối lượng kim loại hiếm tương đương với 1 % nhu cầu của cả nước, theo như báo cáo năm 2016 của Viện Kiểm Toán Quốc Gia.
Nhìn rộng ra hơn, Mỹ là nguồn tiêu thụ đến 9 % đất hiếm của thế giới. Cho đến năm 2019, Mountain Pass tại bang California gần như là mỏ duy nhất còn hoạt động. Nhưng trớ trêu thay là 50.000 tấn đất hiếm được khai thác mỗi năm đều phải gửi sang Trung Quốc để được chế biến và trở về lại Hoa Kỳ dưới dạng kim loại.
Khởi động lại chuỗi cung ứng: nói dễ làm khó
Vẫn theo báo cáo của Lầu Năm Góc, đến năm 2022 « sẽ có thêm ba cơ sở khác đi vào hoạt động ». Trong một bài báo gần đây, Le Figaro tiết lộ núi Round Top Mountain tại bang Texas, cách không xa biên giới với Mêhicô, có thể là một giải pháp giúp Mỹ tự lập hơn về kim loại hiếm. Đây là nơi cất giữ 16 trong số 17 khoáng chất « hiếm » rất cần thiết đối với nền công nghiệp điện tử cao cấp. Tiềm năng khai thác trải dài trên 130 năm
Trước Lầu Năm Góc, tổng thống Donald Trump từ cuối tháng 12/2017 đã ban hành một sắc lệnh nhằm « bảo đảm các nguồn cung cấp chắc chắn và đáng tin cậy về các loại khoáng sản mang tính sống còn » đối với an ninh quốc gia. Đất hiếm cũng như uranium có tên trong danh sách gồm 35 mặt hàng này.
Có điều, như chuyên gia về kim loại hiếm Guillaume Pitron vừa nói, khai thác đất hiếm là cả một dây chuyền công nghiệp và đòi hỏi công nghệ đặc biệt. Vậy tới nay; cụ thể Mỹ đã làm được những gì để giảm thiểu mức độ lệ thuộc vào Trung Quốc ? Guillaume Pitron trả lời :
Guillaume Pitron : Hiện tại Mỹ đã mua lại tập đoàn Hitachi của Nhật, một vài công ty Hoa Kỳ làm chủ được công nghệ này, nhưng chỉ sản xuất ở mức độ cò con, không đủ để bảo đảm nhu cầu trên toàn quốc. Năm 2010 Viện Kiểm Toán Nhà nước của Mỹ trong một báo cáo thẩm định rằng sẽ mất 15 năm để khởi động lại toàn bộ ngành khai thác đất hiếm và chế tạo kim loại hiếm. Cần một quãng thời gian dài như vậy do ở đây liên hệ đến ít nhất là 5 hay 6 lĩnh vực công nghiệp khác nhau, với những kỹ thuật rất khác biệt. Thành thử nói Mỹ cần giảm mức độ lệ thuộc vào đất hiếm của Trung Quốc là một chuyện, làm được việc đó hay không lại là chuyện khác. Tương tự như vậy, khai thác mỏ đất hiếm là một chuyện, làm chủ được toàn bộ ngành công nghiệp sản xuất kim loại hiếm lại là chuyện khác ».
Một trong những giải pháp khác Hoa Kỳ đang hướng tới trong khi chờ đợi kích hoạt lại dây chuyền sản xuất đất hiếm trên lãnh thổ Mỹ, đó là đa dạng hóa các nguồn cung cấp. Hiện tại, ngoài Trung Quốc Mỹ có thể trông chờ vào ba đối tác khác, gồm Pháp, Estonia và Nhật Bản. Tuy nhiên, cả ba đều chỉ có khả năng cung cấp hạn hẹp.
Trung Quốc một mình một chợ
Một nhà phân tích trong ngành được báo Le Figaro trích dẫn nhìn nhận, nếu như Liên Hiệp Châu Âu, Mỹ và một số các nước khác trên thế giới không nhanh chóng bảo đảm được các nguồn cung cấp kim loại hiếm và độc lập với Trung Quốc, thì sẽ « đến lúc chỉ còn có một mình Trung Quốc có khả năng sản xuất trang thiết bị công nghệ cao ».
Không chỉ ngành công nghiệp vũ khí của Mỹ có nhu cầu tiêu thụ kim loại hiếm. Vào lúc mà Hoa Kỳ đang đánh cuộc vào thị trường xe hơi điện, nhu cầu về đất hiếm của Mỹ ngày càng lớn. Đòi hỏi độc lập với nhà cung cấp chính là Trung Quốc càng cấp bách. Tập đoàn USA Rare Earth đã rầm rộ thông báo khánh thành nhà máy chế biến đất hiếm đầu tiên ngoài lãnh thổ Trung Quốc tại bang Colorado. Phía Mỹ cũng liên tục mở rộng đối tác với các tên tuổi trong ngành của Úc hay Nhật Bản. Cũng USA Rare Earth cho biết sẽ hợp tác với Hitachi của Nhật để mở một nhà náy tại bang Bắc Carolina với khả năng đáp ứng đến 17 % nhu cầu tiêu thụ của Hoa Kỳ.
Tất cả những dự án ít nhiều đã đi vào hoạt động nói trên cho thấy Mỹ đã có những bước tiến rất dài để dần dần tách rời khỏi nhà cung cấp gần như độc quyền của thế giới là Trung Quốc. Dù vậy chuyên gia về đất hiếm Guillaume Pitron cho rằng thế thượng phong của Trung Quốc trong lĩnh vực này không hề bị đe dọa :
Guillaume Pitron : Trung Quốc vẫn còn một lợi thế rất lớn so với Mỹ. 95 % đất hiếm sản xuất ra trên thế giới là từ Trung Quốc và có khoảng từ 70 đến 75 % nam châm kim loại hiếm cũng từ các nhà máy Trung Quốc mà ra. Đây là một lợi thế cả về mặt công nghiệp lẫn công nghệ mà chưa một ai có thể qua mặt được Trung Quốc. Cần nói thêm là Bắc Kinh đã mất hàng chục năm để leo lên đến đỉnh trong nấc thang công nghệ đó. Cho dù Hoa Kỳ có phát triển công nghiệp đất hiếm thì cũng không thể đảo ngược được tương quan lực lượng và Trung Quốc sẽ còn chiếm thế thượng phong trong nhiều năm nữa.
Tôn Thất Thông
-------oo0oo-------